Nhà thờ dòng Chúa Cứu thế
(tiếp)
(tiếp chương 2)
Qua ngày thứ ba, mọi người đang có chút hy
vọng là mọi chuyện sẽ khá hơn thì ngay lúc
gần sáng, mọi người đang ngủ bị
dựng cổ dậy vì tiếng súng. Nhiều người
đang nằm trên băng ghế lăn đại
xuống đất, bất kể đè lên trên người
khác. Tiếng súng nhỏ, rồi súng lớn. Ðoàng. Ðùng.
Ðùng. Nhà thờ rung lên.
Ánh chớp của bom đạn, của lửa. Và
choang, ầm, choang. Vài tấm kiếng trêm vòm nhà
thờ vỡ. Lúc này thì không đủ gan lì để
nằm ráng trên băng ghế được nữa. Tôi
cũng lăn hay té xuống giữa những hàng
ghế. Người nằm phải lồm cồm
ngồi dậy để khỏi phải chồng lên
nhau. Thái đã kéo má tôi lọt vào giữa. Bom đạn
bên ngoài càng ngày càng bắn rát, dữ dội. Chúng tôi
cứ ngồi khít lên nhau, ôm chầm lấy nhau,
cận kề cái chết cho tới sáng thì biết còn
sống vì tiếng đạn thưa thớt dần
rồi dứt.
Nghe ngóng, chờ đợi một lúc, tôi và Thái cùng vài
người nữa bạo gan đi ra ngoài. Con đường
dẫn ra bờ sông hôm nay đầy rác rưởi, dơ
bẩn như một cánh tay của một tử thi
đã rữa nát dưới mưa gió, còn muốn
chuồi tới bến sông để rửa ráy.
Nhiều ngôi nhà sập, nhiều nhà cửa, cây cối
cháy rụi.
Ði vào một xóm nhỏ. Nhà cháy, nhà bay nóc, mất
cửa. Vài xác chó xác mèo nằm trơ trong sân. Không có
bóng người. Tôi lặng lẽ kéo Thái trở
về nhà thờ. Có lẽ chỗ này là còn yên ổn,
ít nhứt trong thời điểm này.
Khi chúng tôi trở về thì có một số người
còn đi nữa. Họ tìm tòi trong những nhà bỏ
trống ít gạo, ít bánh chưng bánh tét trên những
bàn thờ còn nguyên. Họ cũng đem về xác vài
con gà con vịt đã chết. Ba bốn người khiêng
được xác một con heo. Họ đưa ra
giếng, mượn đồ nhà bếp của nhà
thờ, cạo lông, làm thịt. Bé cũng phụ làm
heo, được chia phần. Thịt được
cắt nhỏ, kho với muối. Nhà thờ chẳng còn
gì ngoài muối.
Tiếng súng chỉ ngưng được một lúc
rồi lại bắt đầu. Nhưng không dồn
dập mà từng chặp, từng chặp, cho tới trưa.
Cô em dâu của tôi cũng ra giếng lấy nước
nấu một nồi cơm nhỏ. Nhưng khi đem vào,
chúng tôi không dám bày ra mà dấu dưới gầm
ghế, lâu lâu thò tay vắt một vắt nhỏ chia
nhau ăn. Ðám trẻ con đói nhiều quá. Tôi đổi
mấy vắt cơm lấy nửa đòn bánh tét
của bà cụ “hàng xóm”. Không cầm lòng đặng,
Thái cắt mỏng từng lát bánh tét chia cho lũ
trẻ con, nhưng cũng không thấm đủ gì.
Buổi trưa tiếng súng bỗng nhiên im bặt. Trong
mắt mọi người có hy vọng. Nhưng chút hy
vọng đó tan biến như mây khói khi từng
loạt đạn dấy lên. Ðạn bắn đâu
gần lắm, như từ phía ruộng trước
mặt, từ hai bên hông nhà thờ, từ phía sau. Nhà
thờ rung lên và vòm kính trên nóc tiếp tục vỡ.
Mỗi lần một tiếng nổ lớn, một
tiếng kêu choang là kính rơi xuống như mưa
đá. Má tôi lấy cái mền bung ra, trùm kín đầu
con cháu, sợ miểng kính rơi trúng tét đầu.
Nhưng Thái bị tới mấy mảnh kính cứa
cổ tay, cứa vai, máu chảy thấm áo đỏ lòm.
Thuốc thang không có, má tôi lấy mớ thuốc rê
đem theo để ăn trầu rịt vào vết thương
cho Thái. Cũng may em Thái khỏe mạnh, quen dãi dầu
mưa nắng nên vết thương cũng chỉ làm
đau rát chút đỉnh mà thôi.
Chừng hai tiếng đồng hồ sau, tiếng súng
dồn dữ dội về phía sau nhà thờ, ở bên
kia sông. Thái thì thầm cho tôi biết đó là loại
súng A-ka của Liên Xô mà Việt Cộng thường dùng.
Tiếng đạn A-ka sắc, ngọt, giết người
cũng lẹ làng. Hai chị em tôi co quắp bíu
chặt nhau. Tấm mền má tôi trùm đầu làm
nghẹt thở quá. Nếu lúc đó tiếng súng không
ngớt bớt, tôi không thò đầu ra khỏi,
chắc cũng chết ngộp.
“Có vẻ yên hơn, chị. Ðể em ra ngoài.”
Thu cản:
“Ê Thái. Ðừng. Ðừng vội. Nghe hình như...Nghe
đã tề...”
Phía bên ngoài cánh cửa nhà thờ, có nhiều
tiếng ồn ào. Tiếng đập cửa, tiếng
kêu cứu:
“Cha ơi. Cứu chúng con. Cứu chúng con...”
“Cứu người. Cứu người...”
“Ðừng mở. Chật quá rồi cha ơi.”
Cha Sở đang bế một đứa nhỏ bị
thương vì miểng kính, nghe kêu, cha đưa đứa
nhỏ cho một thanh niên trật tự đứng bên,
mở cửa, chạy băng ra ngoài.
Người ta ở bên ngoài tràn vào như giòng nước
lũ. Ðâu mà nhiều thế. Hết chỗ. Họ
đứng sát vào nhau. Nhiều người bị thương
vô tới là ngã lăn ra đất. Ðám đông cũ
bị bắt buộc dồn cục lại, nén chặt
lui phía sau. Cha sở lại phải hô hào, dàn xếp.
Rồi đâu cũng vào đó. Cả cái bệ để
cây đuốc, nay cũng có người leo lên nằm
ngồi. Sát bệ đặt tượng Chúa và Thánh
giá, con nít bò lổn ngổn.
“Khóa cửa lại. Hết chỗ chứa rồi.”
Ðám người cũ, đám người mới
hỏi han nhau. Chỉ biết được là Việt
cộng tới đông lắm. Bên kia sông bắn nhau
dữ lắm. Nghe nói quân lính mình đã tới... Nghe nói
đánh nhau ác liệt nhưng có lính mình và lính
Mỹ, ai cũng mừng, đã có tiếng hoan hô reo
vui.
Cha Sở lại đẩy cửa bước vào. Theo
sau lưng cha có hai người lạ. Một nam một
nữ, họ là người da trắng. Ðám đông
lại xôn xao:
“Mỹ tề. Mỹ phải không?”
“Mỹ chi mà lùn tịt. Thằng Tây ni lùn tịt. Tây
đó.”
Người đàn ông đứng tuổi quần áo
sốc sếch, râu ria xồm xoàm như con đười
ươi trong rừng chạy lạc về phố. Tay
họ cầm cờ trắng có viết chữ “báo chí”.
Cha Sở nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp.
Thì ra, đây là hai phóng viên của một tờ báo
ngoại quốc. Người đàn ông còn có chút bình
tĩnh, nhưng người nữ phóng viên thì trên
mặt còn đầy nét sợ hãi. Mọi người
bu tới coi. Con nít chui dưới chân người
lớn, kêu réo với nhau:
“Bây ơi! Tới coi ông tây bà đầm.”
Bọn trẻ nít này đâu khác gì tôi hồi còn thơ
ấu. Những người da trắng tới xứ
sở Việt Nam, coi như là người rớt
từ trên mặt trăng xuống. Tôi cũng có
mặt trong đám con nít đi coi ông tây bà đầm.
Nhưng ông tây bà đầm hồi đó oai hơn
nhiều, đâu có nhếch nhác như hai người
chạy loạn này. Cha Sở nói chuyện nhiều
lắm. Một lúc sau người nữ phóng viên đã
bớt sợ, cô ta đưa máy ảnh lên bấm lia
lịa:
“Ê, coi nó chụp hình. Chụp hình.”
Con nít thích chí chui tới đứng dàn ngang. Nhiều
người lớn che mặt.
“Báo chí đó. Nó đăng báo có cái mặt mình...”
Chụp đám đông. Chụp người bị thương.
Chụp con nít. Người đàn bà có đôi mắt
chưa hết thất thần chăm chăm vào ống
ảnh. Những đứa con nít nhay nhay vú mẹ mãi mà
không có sữa, ngó cái ống ảnh, nhả vú mẹ
ra rồi khóc ré lên... Ống máy ảnh đưa
về phía tôi. Thái đứng dậy dùng cả cái lưng
che khuất, lớn giọng:
“Còn chụp với chiếc gì...”
Nó đưa tay ra dấu muốn đập bể cái máy
ảnh. Cô nữ phóng viên cười muốn làm thân.
Họ đi lên gác chụp tiếp mấy sản
phụ và hài nhi rồi xuống nhà giảng, đưa
máy ảnh bấm liên tiếp.
Cũng liên tiếp lúc đó có tiếng súng nổ.
Mọi người lúc đó mới nhận ra nguy
hiểm của sự có mặt hai người này.
Việt cộng sắp tới đây rồi. Chúng
thấy hai người da trắng sẽ nghĩ là
Mỹ và sẽ ra tay tàn sát. Vậy là họ nhao nhao
đòi cha Sở phải đuổi hai người này
ra khỏi nhà thờ.
“Cha ơi. Ðuổi chúng đi.”
“Lấy máy ảnh của nó.”
“ Không cho chụp nữa. Ði đi.”
Cha Sở biết được sức mạnh của
đám đông, nên đưa hai người ra khỏi
khu nhà nguyện, kiếm một chỗ khác cho họ.
Nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm.
“Nó đi rồi.”
“Chết tới nơi không lo, còn đưa máy hình bám
lia bấm lịa...”
Tiếng nói chưa dứt thì một tiếng rú
nổi lên. Chị đàn bà ôm cái bọc ngồi trong
góc. Một đứa nhỏ đã nghịch kéo cái
bọc vải của chị ta. Chắc nó nghĩ có
đồ ăn trong đó. Chị giằng lại
được cái bọc.
“Con ơi là con ơi!”
Chị rờ rẫm cái bọc:
“Con ơi, con có đau lắm không? Con đừng...
Con đừng bỏ mạ... con ơi! Ngủ đi,
ngủ đi mạ ru nì... Ầu ơ... Người ta
đi có đôi có bạn, mạ đi một mình
chạng vạng tới nửa đêm...”
Chị ta nói ra miệng câu gì cũng là thơ hết.
Cái bọc gì trong tay chị ta vậy? Sao không rời
khỏi tay? Nó là bọc quần áo, là con búp bê, là...?
Nhưng rõ ràng chị ta là người không còn
tỉnh trí nữa.
Buổi chiều cha Sở trở lại. Cha bảo
mọi người im lặng, giọng nghiêm trọng:
“Bà con đừng có chộn rộn. Tình hình không khá
như mình tưởng mô. Có tin quân Mỹ kéo lên
ở quốc lộ 1. Nhiều nơi đang đánh
lớn.”
“Cha ơi, chừ chạy đi mô, cha?”
“Không chạy đi mô hết. Nhưng phải lo phòng
bị, lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt đầu
từ bây giờ phải dọn chỗ lại sạch
sẽ, thứ tự. Mình sẽ chia ra nhiều ô để
ở, để săn sóc giúp đỡ nhau... Nghe tôi nói
đây. Bà con lúc này phải thương xót nhau, đùm
bọc nhau để cùng thoát hoạn nạn..”
Cha Sở nói là làm liền. Những hàng ghế
được quây lại làm hàng rào từng khu.
Mỗi khu gồm mười gia đình. Cha sở
sẽ lấy kho gạo sau cùng phát vào ngày mai. Cha cũng
kêu gọi thanh niên nam nữ, những người còn
sức lực tổ chức đội trật tự,
đội cứu thương. Chị đàn bà ôm cái
bọc được đưa tới trong khu cùng gia
đình tôi. Ai cũng còn gia đình, nhưng chị thì
lẻ loi. Chị ngồi sát bên Thu. Mấy đêm
rồi chị đâu có ngủ nghê gì nhưng sao
chị không ngã gục? Chị ta đã điên? Cũng
không sao, chị ta điên và hiền lành.
Nhờ tài tổ chức của cha Sở mà chúng tôi có
chỗ riêng, thoáng hơn. Có thể đi lui đi
tới chứ không bị bó chân bó cẳng như trước.
Mỗi ngày chỗ ăn ở được phát
chổi để quét dọn, trẻ con được
đưa vào kỷ luật cũng bớt phá phách
nghịch ngợm. Tuy mùi nước tiểu trẻ con
không thể tẩy được nhưng mọi người
cũng đã quen, không khó chịu tới muốn ói
mửa.
Có lúc tôi rủ Thái đi xuống nhà ngang. Nhưng
gặp nhiều xác chết mới đặt ở
đây vì chỗ chứa xác đã kín đầy. Trong
mấy khu chia nhau ở bên trong nhà thờ, cũng có vài
người bỏ mạng vì vết thương, vì
bệnh mà không có thuốc.
Buổi tối lại có người bệnh nặng
ngay sát khu bên cạnh. Một người đàn ông
nằm quằn quại dưới đất. Tôi
chồm qua dãy ghế nhìn. Mới hồi chiều tôi
thấy ông ta còn tỉnh táo, còn ngồi ăn mấy
miếng bánh mì khô mà. Bây giờ ông ta trợn mắt,
chỉ thấy tròng trắng, lăn lộn, sùi bọt
mép, nhưng khuôn mặt biến đổi bất
chừng, khi như kéo một nụ cười, khi như
kéo một cái mếu.
“Chị ơi, ông nớ mầm răng rứa?”. Thái
hỏi.
“Khi không ba hắn nổi điên. Ai mà biết.”
“Ðiên khi mô. Hồi chiều em thấy ông ngồi
ăn bánh mì khô mà.”
“Thì vậy. Hắn chạy tới đây với
thằng con trai bị thương. Hồi chiều
thằng con chết rồi, xác còn để ngoài
nớ tề...”
Một người kể:
“Hắn nói nhà hắn giàu, có nhà lầu xe hơi.
Vợ hắn chết ngay bữa đầu. Hắn ôm
thằng con chạy. Mấy bữa ni hắn tiếc
của cứ than hoài. Chừ con hắn chết luôn nên
hắn nổi điên.”
“Tội nghiệp quá hỉ?”
“Mạng người không tiếc, còn tiếc của
cải. Ðiên chi mà ngu rứa trời.”
Người đàn ông đang lăn lộn, bỗng kêu
lên:
“Lạy mấy ông đồng chí....Dạ...không
phải, dạ giải phóng. Xin đừng đốt
nhà, đừng đốt xe...Lửa. Lửa dễ
sợ quá… Lạy các đồng chí... tha cho cái nhà, cái
nhà...”
“Thằng cha kỳ khôi chưa. Răng không xin cho
vợ, cho con mà cứ cái xe, cái nhà...Thiệt là
quả báo chi đây...”
“Lấy khăn bịt miệng thằng cha lại.
Tụi nó vô mà nghe được là chết hết
đó...”
Thái kéo tôi về chỗ:
“Chị ngủ sớm đi. Em kiếm được
chiếc chiếu, dấu dưới ni nì...”
Thái lôi chiếc chiếu dưới gầm ghế ra
trải. Má tôi yên lòng ngả lưng. Mấy đêm
rồi, bà cứ dựa lưng vào tường, vào
ghế mà ngủ gà ngủ gật. Mắt má tôi sâu
hoắm và có quầng thâm thật đậm.
Người đàn ông đã hết chịu đựng,
điên luôn rồi. Ðêm, ông ta cứ la như cháy nhà.
Nhưng mọi người quá mệt mỏi, cũng
đã quen dần không thấy còn chi lạ để
coi. May mà ai cũng chợp mắt được
một lúc, vì gần sáng, tiếng súng lại nổ
inh tai. Tôi muốn nhỏm dậy, má đè đầu tôi
xuống:
“Súng đó tề. Ðừng trồi đầu lên nó
trúng.”
Tôi nghe rõ rồi. Tiếng đại bác ở đâu câu
tới rất gần. Lâu lâu điểm một vài tràng
súng nhỏ. Rồi có tiếng xe chạy ngoài đường.
Thái nằm sát tai xuống sàn nhà, nghe ngóng:
“Tiếng xe thiết giáp đó chị. A... có xe tăng.
Xe tăng nữa...”
Mặt đất rung chuyển mỗi khi có đoàn xe
chạy qua. Mỗi lần có tiếng xe là có tiếng súng
nổ liên hồi. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Má tôi
không ngớt cầu nguyện....
Buổi tối hôm trước tôi chỉ ăn có
một lát cơm vắt nhỏ nên sáng hôm sau, bụng
đã đói cồn cào. Bé và Thái đi lĩnh
gạo. Vợ Bé và Thu lo đi nấu cơm. Phải
nấu cho sớm, chớ ai biết lúc nào bom đạn
tới. Thái còn đùa được:
“Mấy bà nấu cơm, nếu có đánh nhau
chạy cũng mang theo nồi cơm mà chạy nghe.”
Cố mà đùa để kiếm vui, nhưng ai mà cười
nổi. Nấu được một nồi cơm cũng
không phải dễ. Có gạo nhưng kiếm củi
ở đâu. Có mấy ngày mà củi trong nhà thờ
hết sạch. Người ta bẻ cả cành khô, vơ
cả lá rụng, bẻ cả thân cây còn tươi,
nhưng với chừng đó người, mọi
thứ trong nhà thờ không cung cấp nổi. Thái tính
đi ra ngoài xóm kiếm củi thì tiếng súng bên kia
sông bắt đầu nổ lớn. Mọi người
vội bỏ của chạy lấy người vào
trốn bên trong nhà thờ. Chờ ngớt bớt
tiếng súng, Thái liều lĩnh đi ra xóm kiếm
được mớ củi. Vợ Bé và Thu lại dè
dặt ra ngoài nấu cơm. Ðạn lúc này đã
bắn vào phía nhà thờ. Má tôi lo lắng:
“Ra kêu mấy đứa vô. Còn nấu nướng chi
nữa.”
Rồi nồi cơm cũng chín. Vợ Bé như đã
phải chạy một mạch với nồi cơm vào
bên trong, thở hổn hển:
“Dễ sợ quá. Từ bếp chạy vô đây mà
đạn nó rượt sau lưng nè.”
Nó nhỏ giọng:
“Bác. Con nghe nói bên An Cựu nhà con, nhà Bác họ tràn
vô chiếm ở hết rồi. Mà bác ơi, nghe nói
Việt cộng cũng ở đầy xung quanh chỗ
ni rồi.”
“Trời ơi là trời!”
Tôi biết má tôi đang lo lắng về nhà cửa. Bàn
thờ ba tôi vừa bày xong những ngày cuối năm
còn mới toanh, nằm lạnh lẽo không nhang không khói.
Lòng người vợ hay chồng già dù cách biệt âm
dương vẫn nặng nghĩa tình với hương
khói phụng thờ. Thấy má tôi sụt sùi, Thái ôm
vai:
“Bác. Thôi ăn miếng cơm cho chắc bụng đã
bác ơi. Con cũng sốt ruột quá nì bác. Mạ
con, em con đang ở dưới Bao Vinh không biết ra
răng.”
Rồi nó tiếp:
“Ðể con coi yên yên con về dưới nớ.”
Má tôi mếu máo:
“Chưa yên mô con ơi. Súng đạn mô có con
mắt con nờ. Ðừng bỏ bác nghe con.”
Thái ứa nước mắt:
“Con mô biết chuyện tọa họa như ri. Con mà
có súng con nhứt định chạy ra ngoài đường,
tìm lính mình để cùng đánh nhau với tụi nó.”
Bé kêu nhỏ:
“Thái. Mi đừng nói ẩu. Ở đây... không
phải là không có... Bụi tre có lỗ tai nghe, lỡ
miệng là khổ...”
“Thôi ăn đi.”
Cũng không ăn được. Ðúng lúc đó
lại ầm ầm tiếng súng. Kính lại rơi
vỡ loảng xoảng. Mọi người nằm sát
xuống đất. Thái dúi tôi vào dưới hàng
ghế rồi đưa cả cái lưng đỡ cho
má tôi. Nhưng may mắn, chỉ một lần kính
vỡ, chưa kịp làm ai bị thương thì
tiếng súng đã hướng về phía khác. Tôi
ngạc nhiên khi nhận ra có cả tiếng súng như
từ trong sân, sau dãy hàng rào nhà thờ bắn ra
nữa. Vậy là họ đã tới nơi!
Chúng tôi chịu đựng sự kinh hoàng như
vậy chừng nửa tiếng đồng hồ.
Chỉ nửa tiếng thôi sao? Nó dài như cả
thế kỷ, nó làm tất cả mạch máu căng kéo
ra, bao lần muốn đứt. Rồi cũng còn
sống!
Chúng tôi đã mở mắt, đã nhìn thấy nhau. Người
đàn ông điên cơn sợ đã làm bớt điên,
ngồi co ro. Bà cụ già dựa vào người
chồng già hồng hộc thở. Coi chị đàn bà
ôm cái bọc vải kìa. Chị nép sát vào tôi từ lúc
nào vậy? Một mùi hôi thối xông lên làm tôi
muốn nôn ọe. Cái mùi hôi này sao bây giờ tôi
mới nhận ra. Cái mùi hôi thối kinh hoàng quá. Nó là
mùi thịt rữa, mùi chuột chết, mùi mồ hôi...
mùi mắm thúi? Không phải, hình như tất cả các
thứ mùi đó hỗn hợp lại! Không phải
chỉ riêng tôi, mà má tôi, mà Thái, mà mọi người
cũng vừa nhận ra cái mùi nồng nặc đó
rồi. Thái chồm người muốn kéo cái bọc.
Người đàn bà né tránh đưa cái bọc sang
bên. Có lẽ vì mạnh tay quá, cái bọc tung ra, trong cái
bọc thò ra một bàn chân trẻ con nhỏ xíu,
nứt nẻ, bầy nhầy. Một dây nước vàng
sền sệt rơi xuống sàn thành một vũng
nhỏ. Mùi thối xông lên nồng nặc hơn,
khủng khiếp hơn. Tôi hoa cả mắt, choáng váng
muốn xỉu. Bỗng nhiên tôi la lớn một
tiếng. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi la.
Người đàn bà cũng la lên một tiếng
lớn hơn, ngay sau tiếng la của tôi. Tiếng la
của bà ta giống tiếng kêu của một con thú
bị giết. Tiếng gầm rú của con thú
tuyệt vọng cùng với tiếng súng nổi lên bên
ngoài làm tôi tỉnh người. Mặc tiếng súng.
Mọi người đổ dồn về người
đàn bà, về mùi hôi thối, về cái xác chết
trẻ con đã quá lâu. Một người đàn ông
tiến tới trước mặt bà ta:
“Ðưa đây.”
Con thú đã hết sức hết hơi, đã thôi không
vật vã mà yếu xìu:
“Ðừng. Ðừng mấy ông ơi. Con tui. Nó còn
sống, còn thở. Con tui mà... Con ơi... ngủ đi
con, ngủ đi con...”
Người đàn bà cố đưa đưa cái
bọc, nhưng nhấc tay không lên. Tiếng hát cũng
đứt quãng vì tiếng thở gấp gáp. Bà ra
đã đói quá.
“Ðưa đây.”
Một người đàn ông đưa tay, chưa
kịp đụng tới thì cái bọc tụt mép
vải. Một vật rơi lăn theo tấm vải
bung, mép vải vẫn còn giữ chặt trong tay
chị. Xác một hài nhi rơi xuống nền nhà. Ðứa
bé đã chết từ lâu, không còn hình hài nguyên
vẹn mà chỉ là một đống thịt đang
rữa nát, rịn nước mủ.
Những người xung quanh kêu rú lên. Thu lùi lại ôm
lấy mặt. Má tôi quay đi. Nhưng chị đàn bà
thì khác, như vừa sắp ngã vật xuống vì
đói, vì hết hơi sức, chị bỗng nhào
tới xác đứa bé. Chị dùng cả tấm thân
chị chồm lên thân hình đứa trẻ. Ðôi
mắt lạc thần bỗng như rực ánh, chị
như chồm hổm như sẵn sàng vồ, cắn xé
nếu ai đụng đến đứa con đã
chết của chị.
“Lấy đứa nhỏ đi. Thúi quá.”
Người ta kéo chị ra. Chị vùng vằng, nhe răng.
Nhưng chị có bao sức nữa. Miệng thì thào:
“Ðừng mà. Con tui. Con của tui mà.”
Người đàn bà bị kéo ra một góc và nằm
bẹp dí. Nhưng bà ta đưa cặp mắt nhìn
mọi người như van xin, lạy lục, rồi
bà lết tới, lết tới. Bàn tay của bà đã
đụng được bàn chân của xác đứa
con. Rồi chị ôm chặt cái chân nhỏ bé nhầy
nhụa, hôi hám, chị rên lên:
“Con đây rồi. Con mô có bỏ mạ.”
Cái miệng chị méo xẹo. Khóc hay cười?
Chị nhìn lên nóc nhà thờ, đôi mắt lại
đờ đẫn, thất thần, lạc điệu,
như không nhìn thấy gì nữa hết, mà đã
lọt ra ngoài vòm trời bên ngoài.
“Kéo mụ ta ra đi. Trời ơi, coi tề...”
“Con ơi. Mạ ôm con nì. Răng mà con dơ quá
rứa. Ðể mẹ chùi cho con...”
Cái miệng của bà đưa tới ngón chân nhỏ
xíu, lở lói. Cái lưỡi chị đàn bà
đưa ra, liếm láp ngón chân, bàn chân. Tôi muốn
xỉu. Thái đỡ tôi:
“Chị đừng nhìn nữa. Chị đi ra chỗ
khác đi.”
Tôi không cất bước được. Sự
thống khổ quá mức của người đàn bà
cũng làm tê liệt thần kinh tôi.
“Ði kêu cha. Báo cho cha biết.”
“Kéo con mụ ra. Mấy chuyện ni không cần cha
phải lo. Mấy anh em trật tự mô hết
rồi?”
Hai người giữ chặt chị đàn bà. Mấy
thanh niên lấy một cái áo cũ bọc kín xác đứa
bé. Giọng chị đàn bà òng ọc như con heo
bị cắt tiết.
“Con ơi, con không bỏ mạ mà. Con ơi, con khóc
đi, khóc lớn đi cho mạ dỗ... Khóc đi, khóc
đi con ơi! Trả lại cho tui, trả lại con
tui cho tui... trả lại... trả lại...”
Ðứa nhỏ đã được đem đi. Người
ta không giữ chị nữa. Vừa được
thả ra là chị bò, chị lết, chị khóc,
chị kêu. Cha Sở lại tới:
“Ðóng chặt cửa. Không ai được ra ngoài. Ðang
đánh nhau dữ lắm.”
Lúc đó cái điệp khúc “trả con tui lại cho
tui, trả lại cho tui, trả lại con tui” mới lùi
xa trong đầu tôi, và tôi như choàng tỉnh vì
tiếng súng bao quanh bốn bề. Người đàn bà
lết theo dưới chân cha Sở mà không ai để
ý. Khi cha ra ngoài, đóng cửa lại thì chị cũng
lết ra ngoài luôn rồi.
Ra đến ngoài như có không khí, thở được
nhiều, cơn đói bị đẩy lui bớt hay
sao mà giọng chị gào thét lại thi đua được
với bom đạn. Chị chạy đi đâu?
Chị ra sao rồi? Chỉ thoáng một cái, tiếng
của chị hoàn toàn im bặt trong tiếng súng càng lúc
càng hỗn loạn.
Tôi vẫn còn bị chôn chân ở chỗ đứng
đó. Ðứa bé không còn. Người mẹ khốn
khổ cũng không còn? Nước mắt tôi chảy ràn
rụa trên mặt tự lúc nào. Tôi lại nghe vang trong
đầu điệp khúc đòi con của người
mẹ. Bom đạn nuốt bà mất rồi sao?
Nuốt giùm bà đi, vì bà đã gửi sự sống
theo đứa con rồi. Chúc mẹ con sớm gặp
nhau.
Người ta quên chị đàn bà ngay sau đó. Bây
giờ không chỉ súng nhỏ nổ rền mà cả súng
lớn cũng tới tấp nữa. Ðại bác. Bom chơm.
B 40. Aka. Mọi tiếng súng dữ dằn nhất dùng
để hủy diệt con người đang dồn
tới thành phố Huế nhỏ bé, hiền lành, đang
đổ xô vào khu nhà thờ mọi người dùng
cầu nguyện. Choang. Choang. Mấy miếng kính màu trên
vòm nóc nhà thờ còn sót lại, vỡ tan, rơi
xuống làm một trận mưa kính bên trong.
“Ở đây nguy quá rồi, bà con ơi!”
Ai đó la thất thanh. Cảnh hỗn loạn tìm nơi
trốn núp. Tiếng xô đẩy, tiếng chửi
rủa nhau. Có nhiều người chui xuống dưới
lớp người khác đang nằm đè nhau để
núp trốn. Có người kéo một người khác
dưới ghế nguyện để lấy chỗ cho
mình. Nhưng đâu cũng không yên nữa. Cả khu nhà
thờ rung rinh, trêm vòm rực lửa, cả gạch, ngói,
bụi khói như một tấm lưới dày chụp
xuống.
“Chạy. Chạy bà con ơi.”
“Mạ ơi, con bị rồi...”
“Anh ơi, con nó...”
“Trời ơi, chồng tui... Bà con ơi, cứu,
cứu...”
Tiếng kêu khóc nổi lên bốn phía. Người ta xô
đẩy nhau, níu kéo nhau. Dồn góc này, chui nhủi góc
kia. Ầm. Ầm. Kêu la. Nhắm mắt. Chết
thật. Chết giả. Sợ tới chết. Cây thánh
giá gỗ từ trên tường bay xuống. Cây thánh
giá đã có máu của chúa, không thấm thêm máu
của ai. Nhưng kính, gạch, đá, bắn tứ
tung, gây nhiều thương tích. Một người
đàn ông dựa đầu vào cây thánh giá đã
nằm yên dưới nền nhà, cái đầu bể
nát vì gạch đá nghẹo sang một bên. Anh ta
mở đôi mắt an nhiên nhìn mọi người.
Tôi có bị thương ở đâu trên người
không? Má tôi, Thái, các em tôi có đứa nào bị thương
không? Trên quần áo mọi người đầy máu,
máu của mình, máu của người. Một tia máu
bắn cả vào mặt tôi, vào mắt tôi làm tôi
phải nhắm mắt lại. Tôi bị rơi vào bóng
tối và như thấy tử thần đang giang tay
ra, đòi dắt đi.
“Chị bị rồi, Thái ơi!”
“Không phải chị mô. Máu của người ta.”
Thái xé vạt áo sơ mi để lau mặt cho tôi.
“Con ơi. Con mô rồi?”
“Má, má mô? Mô rồi?”
Tôi quờ quạng. Tay tôi đụng cổ má tôi. Da bà
còn mềm, còn ấm. Thái vẫn cố quệt lau
tiếp trên mặt tôi. Dù hai mí mắt rít chịt, tôi
cũng cố mở, và bám áo Thái để bước
theo.
Không biết hai cánh cửa gỗ dày chắc chắn có
khóa chặt hay không, mà chỉ cần đoàn người
vừa ùa tới là đã bị đẩy tung, rệu
rạo. Hình như không cần phải bước, thoáng
cái chúng tôi đã bị đẩy ra tới sân. Nhưng
ra tới sân, chúng tôi lại lạc vào giữa cơn
bom đạn. Bầu trời đầy những
lằn sáng như sấm sét, bốn phía tiếng rít
của đạn, trên đầu tiếng dội
của bom. Nhiều người ngã xuống. Tiếng kêu
khóc như ri.
“Trở lại. Trở lại.”
Xô đẩy, chen chúc, đạp lên nhau để
trở vào bên trong còn vất vả, khó nhọc hơn
lúc đẩy cánh cửa gỗ mà ra ngoài. Chúng tôi
cứ bị xô dạt lui xô dạt tới, và nhà
thờ ba phía cửa mở toang hoác, bên trong trống
hốc in cả một khoảng trời.
Chúng tôi tìm được một khoảng tường.
Nhưng chưa định hồn, đám người
đã ùn tới, lại xô, lại đẩy, uýnh
lộn, giằng kéo. Chúng tôi lại phải chạy,
nhắm mắt nhắm mũi mà chạy. Khi mở
mắt ra, chúng tôi lại trở vào được bên
trong nhà thờ. Bây giờ cũng chỉ còn mấy
mảnh tường sụp đổ, một nửa mái
nhà thờ đã mất tiêu. Thấy không an toàn,
nhiều người lại kéo nhau chạy ra, họ tràn
xuống nhà ngang, nhà bếp, phía sau vườn, bên
giếng nước. Ở đâu chỉ cần có
một vật chắn là có người ẩn núp. Không
còn ai có thể cứu ai, lo cho ai lúc này nữa.
“Ở đây là chết. Bác, mình phải chạy.”
“Còn chạy đi mô chừ con ơi!”
Má tôi rên lên rồi òa khóc. Một tiếng rú. Một
người ngã. Một tiếng kêu cha kêu mẹ.
Một người nữa bị thương. Cứ
vậy, bên này bên kia, góc này góc nọ. Ầm. Một
tiếng nổ ngay trên đầu chúng tôi. Không
biết chúng tôi đã chạy hay bị ném ra ngoài.
Chỉ biết cắm đầu chạy giữa các
lằn đạn xé trời, đổ rạp cây
cối, xớt ngọt con người.
Cũng có lúc súng đạn biết mệt, biết
nghỉ ngơi. Tôi ngồi phệt xuống. Ụt
ụt ụt. Tôi ngồi lên một con heo bị thương
và con heo đau đớn chửi lại tôi, hất tôi
xuống đất. Lúc đó tôi mới có chút
thời gian coi lại mình. Quần áo tôi ướt
đẫm máu đỏ. Má tôi, Thái và mấy đứa
em áo quần cũng nhuộm máu đỏ nhiều hơn
đất cát. Nhưng may mắn chưa ai bị
vết thương nào đáng kể. Thái bị thêm vài
mảnh kiếng cắt ở cổ, ở cánh tay. Còn tôi,
một ngón chân bị bị sướt, dập. Nhưng
chút đau rát đâu có thấm thía gì với cảnh
chết chóc đau đớn xung quanh. Tôi đã mất
luôn đôi dép lúc nào không biết. Chẳng ai còn
một đôi dép trong chân, kể cả má tôi. Nhưng
Thái vẫn ôm ghì bọc gạo và bình nước. Má
tôi vẫn còn cái bọc quần áo.
“Còn bọc quần áo của chị và của em đâu?
Há? Ðâu?”
Tôi đã thả rơi ở đâu. Lúc nào. Nhớ gì
nổi. Thây kệ. Không được. Thái chạy
trở lại và tìm ra.
Súng đạn nghỉ lấy hơi xong rồi lại
bắt đầu lẻ tẻ lên tiếng. Mọi người
bàn nhau, cứ chạy ra phía bờ sông. Còn nguồn tin
Mỹ và lính Cộng hòa đã ở bên kia cầu. Bên
kia cầu mới là hy vọng. Thì cứ đi tới.
Quả là phía bên kia sông có yên tĩnh hơn. Súng
nổ ran nhiều ở phía ruộng. Có nhiều đoàn
người di tản đi ngược đi xuôi,
loạn xạ vì họ chẳng biết nơi nào yên
ổn, nơi nào không yên! Biết hỏi han cũng không
được tin tức gì, mà người ta cũng không
có thì giờ kể cả cái gật đầu hay
lắc đầu nữa.
“Thôi kệ con ơi, phó cái mạng cho trời đất.”
“Dạ. Rứa thì mình cứ theo người ta mà
chạy.”
Gia đình chú tôi có nhiều con cháu. Mấy đứa
con nít thật quá tội nghiệp. Chúng nó vừa đói,
vừa mệt, lại còn bị kéo lê đi, mặc
kệ chân đụng đá, cây cành giữa đường.
Chạy qua mấy cái lăng cổ, cung An Ðịnh đã
thấp thoáng hiện ra giữa một vườn
rộng cây cối rậm rịt. Cung An Ðịnh
hiện nay là nơi ở của Bà Từ Cung. Trong sân
cũng đã lố nhố người. Chúng tôi theo vào
và cũng vội vàng tìm chỗ tránh đạn. Bên
trong đã khá đông, chúng tôi bị dồn vào phía
sau, sát bể nước lớn. Ở đây, tiếng
súng xa hơn. Có vẻ vững tâm, Thái sắp đặt
đồ đạc và chỗ nghỉ ngơi. Vợ Bé
lấy mấy miếng cơm vắt đưa cho má tôi
và bầy con nít trước. Lúc này tôi mới để
ý không thấy hai ông bà cụ già ngồi sát cạnh
trong nhà thờ đâu. Lúc chạy, họ bám theo áo chúng
tôi mà. Thấy tôi cứ thắc mắc lo cho hai ông bà
cụ, má tôi nói:
“Ai có số phần đó con ơi. Phần mình còn chưa
biết tới đây ra răng nữa là... Ăn đi
một miếng. Thái, con cũng ăn luôn. Mấy đứa
nữa, ăn luôn. Chớ lỡ ra lại chạy....”
“Con thấy ở đây yên. Lại gần sông, bên
kia nghe nói Mỹ lính mình đã tới...”
“Thôi, ăn đi. Hơi đâu mà đoán.”
Má tôi nói vậy mà đúng. Chỉ mươi phút sau
thôi, tiếng súng tiến lại gần và bao vây quanh
khu cung An Ðịnh. Thái đẩy mọi người
nằm xuống. Chúng tôi nằm sát vào nhau, như thân
này có thể chắn đạn cho thân kia. Không ai dám
ngóc đầu lên, vì một người mới
nhỏm dậy kéo đứa con, ông ta bị ngay
một viên đạn xẹt vào, bứt luôn một
lỗ tai. Cũng may nó tránh xuyên qua cái đầu.
Chết hụt.
Chúng tôi lại rơi ngay vào trung tâm của trận
đánh rồi. Lần này, cái chết như đã
đến nhặt từng người. Súng lớn, súng
nhỏ, từ bốn phía lấy cung An Ðịnh làm
điểm nhắm. Ầm. Ầm. Hai tiếng nổ làm
chúng tôi bay dội tứ tung. Cái bể chứa nước
vỡ. Nước tràn ướt cả phòng. Phía trước
đã trống rỗng.
“Chạy”.
Nhiều tiếng hô. Nhưng nhiều người không
chạy được, nằm đó. Họ đã
chết. Chúng tôi theo Thái từ phòng dưới
chạy lên phòng trên. Nhưng cánh cửa ngăn phòng
đã đóng lại. Day. Ðấm. Ðạp. Cánh cửa
cũng tung ra. Tiếng đạn bên ngoài càng dồn
dập hơn, làm cho con người ta thu nhỏ lại
và chừng đó người thêm vào cũng đủ
chỗ để trốn nấp.
Không còn đâu an toàn nữa. Lại ầm, ầm. Căn
nhà rung lên, giựt loạn. Ầm. Ầm. Một
nửa mái nhà đổ xuống. Rào rào. Ðá gạch.
Tiếng kêu. Tiếng khóc. Thái cố đẩy chúng tôi
vào tuốt phía dưới một bộ trường
kỷ. Cát bụi làm chúng tôi không mở mắt ra
được. Nhưng tôi biết má tôi vẫn
nắm chặt tay tôi. Giọng má tôi bên tai: “Con ơi.
Con. Con còn đó không con.”
Bầu trời âm u bên ngoài sáng rực. Từng lằn
chớp lóe lên. Mỗi lằn chớp chiếu cho tôi
một hình ảnh. Mấy đứa con tôi. Tôi
chắc không trở về để thấy chúng nó
nữa. Chồng con tôi đã mua vé sẵn, ngày mùng hai
Tết sẽ về Huế. Ngày mùng Hai qua rồi, bây
giờ là mùng mấy? Tôi còn lòng dạ nào mà tính toán
tháng với ngày. Ở Sài gòn có như ở đây không?
Chồng tôi. Các con tôi. Trời đất ơi! Tôi không
gặp được nữa!
Nhưng lúc này là phút tận cùng rồi. Phút giữa
sống và chết là một lằn chỉ nhỏ.
Sự sợ hãi cũng đông cứng rồi. Tôi bình
tĩnh lạ lùng. Tôi bịt tai mà vẫn nghe tiếng
đạn rít. Lúc dồn dập phía này. Lúc thưa
thớt phía kia. Lúc sao dồn hết vào mặt
tiền. Lúc chạy vòng phía sau. Nhưng tòa nhà đã
như cái răng sắp rụng, đong đưa, lung
lay và chờ giờ bứt ra...
“Không xong rồi. Cõng ngài. Cõng ngài mau lên...”
“Chạy... theo”.
Thu la lên. Nhưng Thái dìm đầu Thu xuống.
“Muốn bay luôn cái đầu há.”
“Phò ngài chạy mau. Phía này. Không, phía này...”
“Trời ơi. Ðạp lên đầu tui.”
“Cha mạ ơi, trúng chỗ bị thương
của tui. Ui chao, ui chao...”
Tôi hé mắt. Bóng người chạy thấp thoáng
trong bụi mù. Một bà già mặc áo gấm đeo trên
lưng một người mà tôi không nhận ra đàn
ông hay đàn bà. Nhưng cái người cõng ngài
mạnh lắm, xô, đẩy, đạp, gạt... và
biến mất rất nhanh. Cùng lúc đó, Thái cũng băng
người nhảy vọt ra phía cửa sổ. Em Thái
cũng bỏ chúng tôi?
“Cầm cái cơi trầu của ngài...”
“Cái mền... cái mền...”
Vài người lật đật chạy theo. Rồi
hết. Một giọng càu nhàu:
“Bà Từ Cung đó. Sướng quá hí. Giờ ni mà còn
ngài với nghiếc.”
Không ai hưởng ứng vì tiếng súng lại vang
rền. Không phải một phía mà trở lại
bốn phía. Sẽ không còn một dịp may nào
nữa! Các con ơi! Thôi mẹ từ giã, mẹ vĩnh
biệt các con!
Tôi không thắc mắc gì về việc em Thái nhảy
ra ngoài cửa sổ nữa. Tôi cũng đã hết hy
vọng chạy thoát như vừa rồi chạy ra
khỏi nhà thờ. Sẽ chết ở đây. Trong lúc
gần như mê đi, tôi bỗng có cảm tưởng
trên má của mình ấm áp. Nước ấm? Làm gì có.
Máu đó thôi. Một đám lông xù xì áp vào người
tôi, chắn phía trước ngực tôi. Một cái lưỡi
chó liếm vào mặt tôi và máu, ở người tôi
hay người nó, mà có mùi ngai ngái, tanh ấm, dễ
chịu. Máu từ ngoài áo thấm vô hay từ bên trong
chảy ra. Con chó cứ dụi vào tôi, đẩy sát tôi
vào người má tôi. Má tôi ra sao rồi? Má có
ngất đi không?
Mời
xem tiếp phần 4
|