Chương 3
Những mảnh vụn góp nhặt
Sau một đêm ḥ hét, phẫn nộ, rực lửa,
bóng tối cũng tan dần. Trời vừa hé sáng th́
những tiếng súng cũng im bặt.
Mặt trời như đă nổ tan tành từ bao
giờ. Ánh sáng của ngày hắt hiu, buồn thảm.
Buổi sáng nay thức dậy không nghe tiếng gà gáy,
không có tiếng chim kêu, không có tiếng chuông chùa và
tiếng chuông nhà thờ, cả tiếng gà vịt cũng
không nữa.
Bầu trời như muốn ứa nước.
Những khu vườn bỗng tiêu điều u ám
lạ, cỏ đẫm sương mai bị dẫm nát
tan tành, vung văi những giẻ rách, mảnh đạn
và vết máu. Vết máu kéo lê mặt đường,
nối dài từ khu vườn này sang khu vườn khác.
Một vài vũng máu c̣n đọng trước sân, bên
bể cạn, cạnh gốc mai vàng ngập ngừng e
ngại v́ màu sắc quá tươi tắn.
Cùng với ánh sáng nhạt nhẽo vừa ló dạng,
trên các nẻo đường, bỗng xuất hiện
vô số người, đàn ông có đàn bà có. Đàn
ông mặc quần áo ka ki, quần dài quần ngắn có,
đàn bà mặc bà ba đen, tóc bím nhưng không
thả lỏng mà cột lên cao, gọn ghẽ. Họ
cầm súng, mặt mày nặng ch́nh chịch nh́n nhau.
Những tốp khác gác ở các đầu đường,
trước nhiều nhà, hoặc nằm ngồi la
liệt ở các khu vườn. Có rất nhiều xác
chết và người bị thương ở đầu
dốc, hai ba xác nằm sơng soài, ở giữa
đường vài xác nằm sấp. Bên cạnh
một tốp gác ở đầu cầu có vài xác
cụt đầu và những tay, những khúc chân vương
văi. Bên vệ đường, một số người
bị thương đang nằm rên la, một số
đàn ông đàn bà đang khiêng từng người vào
một khu vườn gần đó. Khu vườn bao
bọc một ngôi nhà lớn, nhưng như không có
dấu vết ǵ của người sống trong đó
nữa.
Một thiếu nữ có đôi mắt sắc, đeo súng
A.K. đi ra giữa đường, cô ta đưa tay lên
miệng nói lớn:
“Các đồng chí, hăy tải thương bớt vào
vườn này, c̣n bao nhiêu xác chết dồn lại
một nơi.”
Cô ta lập đi lập lại hai ba lần. Tiếng cô
là tiếng động đầu tiên trong buổi sáng.
Giọng nói lớn của cô như rung vỡ nhiều
cánh cửa và tràn vào bên trong những căn nhà đang
đóng kín. Tiếng của cô gái cũng làm những
tiếng rên la cất to hơn.
Lớp người bị thương được
khiêng đi rất lâu. Một toán người khác
từ dưới dốc đi lên, một toán khác
từ trên dốc núi đi xuống, người
thiếu nữ lúc năy hỏi, giọng vẫn rổn
rảng:
“Sao, báo cáo t́nh h́nh các nơi, các đồng chí!”
“Hoàn toàn xong hết. Địch câm họng từ lúc
bốn giờ sáng.”
“Tôi sẽ phụ trách về những người
bị thương. Số đồng chí hy sinh giao cho
đồng chí X10.”
“Trên đó khoảng gần 100 đồng chí bị
thương.”
“Đem lên phía chùa trên dốc.”
“Phía dưới cầu có khoảng trên năm
chục người bị thương, số hy sinh
nhiều hơn.”
“Đem vào vườn, sẽ t́m địa điểm
di tản sau.”
“Có tin nữa.”
“G?”
“B3 truyền lệnh các đồng chí chia nhau vào các
nhà, đừng để đồng bào bỏ chạy
gây phiền phức. Ngay sáng hôm nay phải văn hồi
trật tự.”
Nhiều tiếng nói: Tuân lệnh. Những tốp người
chia nhau đi. Phút chốc đoàn người thưa
hẳn, chỉ c̣n vài tốp gác ở ngả đường.
Một anh lính trẻ vác khẩu A.K. đưa tay
quệt trán, mặc dù lúc đó trán anh ta không có
giọt mồ hôi nào. Đợi cho các đồng chí
bạn đi khuất, anh rẽ vào căn nhà đằng
trước mặt. Con ngơ dẫn vào nhà khá xa. Khu vườn
âm u bao kín ngôi nhà ngói cổ kính. Anh lính trẻ
ngập ngừng rồi đưa tay gơ cửa. Nhưng
gơ một hồi không thấy ǵ, anh bỏ đi ra. Quái,
rơ ràng nhà này có người ở mà. Anh lẩm
bẩm. Anh đi qua khoảng sân rộng, đứng
lại bên chiếc bể cạn cạnh gốc mai vàng.
Nhà nào cũng có cái bể cạn, ḥn non bộ và cây
mai vàng y hệt nhau. Anh nh́n kỹ trên mặt đất.
Có nhiều vết máu nối nhau chạy dài ra một góc
vườn nơi phía bụi tre. Anh giơ một cánh
tay lên rung nhẹ một cành mai. Anh nh́n vào ngôi nhà
một lúc, rồi anh thở nhẹ bỏ đi ra,
lại dựa lưng vào cột trụ đầu
cổng hờm súng đứng gác.
Một lát sau, trong nhà có tiếng chân nhẹ đi ra
cửa. Bên trong căn nhà c̣n tối mờ. Bóng một
người đàn ông thận trọng ḍ từng bước
một. Anh ta tiến đến nơi cái sập
gỗ. Một xác người đang nằm đắp
chiếu ở đó. Anh giở chiếu lên gọi
nhỏ:
“Ông nội, ông nội.”
Một người đàn bà nữa đi ra đứng
sau lưng người đàn ông. Người đàn ông
đưa tay vuốt mắt ông già đang mở
trừng trừng, rồi nói với người đàn
bà:
“Ông đi rồi.”
Người đàn bà bước lùi một bước
rồi ̣a khóc. Nhưng rồi chợt nhớ ra, bà
đưa tay tự bịt kín miệng ḿnh lại, hai
mắt bà ta cũng mở trừng trừng nh́n người
đàn ông, vẻ hốt hoảng mê sảng. Người
đàn ông đưa tay lên quệt nước mắt
rồi cũng bịt chặt miệng ḿnh lại.
Cả hai đi vào căn pḥng nhỏ phía trong. Có
tiếng th́ thầm trong bóng tối nhạt mờ,
nhiều đầu người nằm ngồi lổm
chổm:
“Răng con, ngoài yên chưa?”
“Suỵt. Hỏi dỏ hỏ, không nghe nó vừa gơ
cửa đó răng!”
“Con, ôn con ra răng rồi?”
Người đàn ông kéo người đàn bà
ngồi xuống:
“Ḿnh ngồi xuống đi, đừng có đứng
nữa.”
Người đàn ông cũng ngồi xuống cạnh
vợ. Giọng anh ta nghẹn ngào:
“Mạ, ông đi rồi.”
Nhiều tiếng khóc muốn bật ra rồi gượng
lại kịp. Tiếng thút thít của người
lớn rồi trẻ con tấm tức. Người
đàn ông lại đứng dậy:
“Thôi đừng khóc. Họ nghe họ vô chừ.
Mạ, mạ đừng có khóc.”
Nhưng nói xong người đàn ông cũng nấc lên
một tiếng nhỏ. Anh ta đi ra ngoài nhà, anh ḍm qua
khe cửa. Một tốp đàn ông đàn bà đang
đi vào trong sân. Anh ta nhè nhẹ trở đi vô. Căn
nhà hoàn toàn im lặng.
Tiếng gơ cửa nổi lên ban đầu c̣n thưa,
rồi trở nên cấp bách. Có giọng đàn ông người
miệt ngoài cất lên:
“Mở cửa, mở cửa, quân giải phóng đến.”
Bên trong căn pḥng nhỏ, người đàn bà
cầm chặt lấy tay người đàn ông. Bàn tay
của người mẹ bịt chặt miệng đứa
cháu, sợ nó la khóc. Tiếng đập cửa bên ngoài
mạnh hơn:
“Mở cửa. Mở cửa không chúng tôi bắn.”
Có tiếng người đàn ông trẻ tuổi:
“Hồi năy tôi gơ măi mà không có ai. Chắc họ
chạy hết rồi.”
“Vô lư, đêm mà chạy đi đâu. Chưa ai
chạy khỏi nhà hết.”
Rồi một giọng khác dơng dạc:
“Tôi đếm từ một tới ba mà không mở
cửa là tôi bắn. Có ai trong nhà không? Một…”
Người đàn bà xô người đàn ông ra
cửa, chị lẩy bẩy thế nào mà gây một
tiếng động nhỏ. Bên ngoài có tiếng cười
gằn rồi tiếng hô tiếp:
“Hai.”
Người đàn ông đă ra tới cửa, anh giơ
hai tay lên khỏi đầu:
“Dạ lạy các ông, lạy các ông tui mở, dạ
để tui mở…”
“À, biết ngay mà. Mở cửa.”
Người đàn ông lẩy bẩy một lúc mới
mở được cánh cửa. Toán người ùa vào
nhà. Họ có khoảng chừng mười người,
kẻ vác súng trường người xách bị
rết. Người đàn ông lớn tuổi nhất,
có đôi mắt thật to nhưng vẻ mặt xanh
xao, nh́n một lượt khắp nhà:
“Các đồng chí canh gác cửa ngơ.”
Vài người đi vào các phía cửa sổ. Người
đàn ông chủ nhà mặt tái xanh tay chân run cầm
cập nói không ra tiếng:
“Lạy các ông chúng tôi là người lương
thiện.”
“Hừ, tại sao gọi cửa hoài không mở
hả. Mở đường cho ngụy chạy
phải không?”
“Lạy các ông, con sợ quá.”
“Không có các ông nào ở đây hết. Chúng tôi là quân
giải phóng.”
“Dạ.”
“Có bao nhiêu người trong nhà gọi ra hết đi.
Mau.”
Rồi ông quay đi:
“Các đồng chí. Mở cửa sổ ra.”
Ánh sáng lùa vào căn pḥng, soi rơ khuôn mặt của ông
già nằm trên sập gụ. Chiếc chiếu đă
được mở ra từ trước, tấm chăn
đắp trên người ông loang đầy máu, đă
sệt khô. Người đàn ông lớn tuổi bước
tới một bước nh́n vào mặt người
chết, rồi la ồ lên một tiếng:
“Ông chết rồi hả!”
“Dạ.”
“Bị tự bao giờ?”
“Dạ thưa ông… ông giải phóng, dạ bị
tự lúc một giờ sáng, máu ra nhiều quá.”
“Các đồng chí cho đem xác ra ngoài vườn giùm
đi.”
Mấy người đàn ông định xúm tới. Người
đàn bà run lập cập:
“Lạy các ông, dạ lạy các ông giải phóng,
dạ để chúng con xin được chôn
cất.”
“Để đó.”
Mấy người đang đi đến tấm
sập gụ dừng lại. Người đàn ông
lừ mắt vào pḥng trong:
“Gọi hết cả nhà ra đây. Đi ra hết. Ai
c̣n ở trong chúng tôi bắn.”
Mấy đứa trẻ con ra trước rồi
một người đàn bà đứng tuổi,
mấy cô con gái, một chị đàn bà bế đứa
con nhỏ. Mặt người nào người đó tái
xanh. Người đàn ông lớn tuổi nạt:
“Đứng cả vào một góc nhà.”
Cả nhà líu ríu đứng về phía sập gụ, bên
cạnh xác chết của ông già. Có tiếng động
nhỏ phía trong. Người đàn ông lớn tuổi
lắng tai nghe. Một nữ cán bộ dợm tới
một bước, chĩa súng vào căn pḥng nhỏ:
“Ai trong đó xin mời ra.”
Bên trong vẫn im như tờ. Nhưng người
đàn ông lớn tuổi đă lừ mắt ra
hiệu.
Hai ba người khác bước tới. Cánh cửa phía
bên buồng trong bỗng bật mở sáng. Một bóng
người lao ra ngoài. Một tiếng chóc khô,
lạnh, vang lên. Có tiếng kêu ở bên ngoài cửa
sổ và tiếng rú của mấy người đàn
bà. Người đàn ông đứng tuổi lại cười
gằn:
“Coi lục soát kỹ nhà này.”
“Tuân lệnh.”
Mọi người chia nhau đi lục soát, người
đàn bà già và thiếu phụ bồng con ôm mặt khóc
nức nở. Mấy cô gái mặt tái xanh, cắt không
c̣n hột máu. Người đàn ông ôm chặt
một đứa nhỏ đang đu lên người
ông. Đám người lục soát một hồi
trở ra, một người nói:
“Không có ǵ nữa cả.”
Người đàn ông đứng tuổi hất hàm:
“Ra coi tên đó chết chưa!”
“Dạ, đă xem, chết rồi.”
Nhiều tiếng khóc cùng bật lên một lúc. Mấy
cô nữ cán bộ xúm lại, vẻ hung hăng lúc
đầu biến mất. Một cô làm thân với
thiếu phụ:
“Chị đừng buồn, đừng sợ. Chúng tôi
chỉ xử những người có tội, c̣n
những người dân th́ chúng tôi có bổn phận
phải bảo vệ.”
Thiếu phụ chùi nước mắt:
“Nó là em tui mà. Nó có tội t́nh chi mô.”
“Tại anh ấy bỏ chạy. Trong hoàn cảnh chúng
tôi, chúng tôi phải tự vệ.”
Người đàn ông đứng tuổi nh́n một lượt
những khuôn mặt đang run rẩy, tái xanh. Giọng
hắn chầm chậm, đều đều:
“Mẹ và chị đừng sợ. Chúng tôi đến
đây là để giải phóng cho đồng bào…”
Người thiếu phụ đang khóc bỗng nín
bặt, ngơ ngác. Mấy đứa con gái nép sát vào
nhau. Có tiếng chân người chạy từ ngoài
cổng vào. Hai giải phóng quân khác đi vào. Họ có
quàng khăn xanh ở cổ, người đàn ông
đứng tuổi hỏi:
“Có chuyện ǵ vậy?”
Một người nói nho nhỏ vào tai người
đàn ông lớn tuổi. Hắn gật gật đầu,
quay lại nói với các nữ cán bộ và mấy người
giải phóng:
“Các đồng chí ở lại đây. C̣n tôi
với đồng chí Thu đi lên xóm Chùa.”
Tiếng chân đi ra cổng. Một nữ cán bộ giơ
tay:
“Các đồng chí, chúng ta ở lại đây,
sửa soạn cơm nước rồi phụ bạn
tải thương, tiếp vận.”
“Đồng chí Xuân nói phải. Lát nữa chắc có
tiếp vận tới.”
Người nữ cán bộ mang tên Xuân mỉm cười,
vỗ vai thiếu phụ thân mật nói:
“Bây giờ để tôi nhờ các đồng chí
phụ với ông nhà lo chôn hai xác chết. Thưa
chị, đây là…”
Xuân chỉ vào xác chết ông già. Người mẹ
vội vă trả lời thay con dâu:
“Dạ thưa cô, đây là ông nội của tụi
nó.”
Người nữ cán bộ xua tay:
“Chết, mẹ giải phóng, con xin mẹ đừng
gọi con là cô. Con xin được làm con mẹ như
các chị các anh ở đây.”
Cô nói xong quay lại đồng bạn:
“Bây giờ nhờ đồng chí Tiến, đồng
chí B́nh lo chôn giùm hai xác người, cụ và anh đang
ở ngoài vườn.”
Rồi đổi khuôn mặt buồn rầu, người
nữ cán bộ tên Xuân quay lại phía gia chủ:
“Thật đáng tiếc, trường hợp ngoài ư
muốn, xin chia buồn với mẹ và các anh các
chị.”
Người đàn ông quay mặt đi giấu hai
giọt lệ đang lăn xuống. Xác chết
của ông già và người thanh niên được bó
trong hai chiếc chiếu rồi đem vùi nông ở góc
vườn. Một lát sau, mấy cô nữ cán bộ làm
thân với mấy cô gái, các người lính giải
phóng th́ chia nhau gác góc vườn và lo đi liên
lạc, Xuân nói với người đàn bà già:
“Thưa mẹ, nhà ta c̣n gạo không?”
Bà già thật thà:
“Gạo c̣n hai bao. Tết mà cô. C̣n cả bánh tét và
mứt nữa cô.”
“Ấy, xin mẹ đừng gọi con bằng cô
nữa. Mẹ gọi con là con như gọi các anh các
chị đây.”
Cô lại cười, nói tiếp:
“Có lẽ vài ba bữa nữa bộ đội
mới tiếp lương thực tới. Mẹ cho chúng
con vay hai tạ gạo. Vài ba hôm lấy xong thành phố
Huế, Bác Hồ vào thăm, con sẽ thưa trường
hợp của mẹ. Bây giờ xin mẹ kư vào
cuốn sổ vàng của Bác Hồ.”
Cô quay lại gọi:
“Đồng chí Nữ đâu, đem sổ ra đây.”
Người nữ cán bộ tên Nữ là một cô gái
mập mạp, nhưng nước da vẫn tái xanh, cô
ta nhanh nhẩu rút trong áo ra một cuốn tập, ch́a
tới bên bà già:
“Thưa mẹ đây, xin mẹ kư.”
Người đàn bà già run run:
“Dạ tui có biết chữ chi mô mà kư.”
Cô gái lại cười, hỏi mấy cô gái Huế
đang đứng dồn với nhau một góc.
“Thôi các chị biên tên rồi kư giùm. À mà để
tôi biên tên cho cũng được…”
“Dạ thưa mẹ, mẹ tên chi. Dạ xong rồi.
Xin chị kư.”
Cô gái nhỏ run run viết một chữ kư nguệch
ngoạc lên trang giấy. Nữ đưa cuốn
sổ cho Xuân. Người đàn bà lặng lẽ chùi
nước mắt. Mấy cô gái vẫn đứng
dồn một góc, nắm chặt tay nhau, trong lúc cô
nữ cán bộ tên Xuân cười:
“Trưa nay chúng ta ăn mừng chiến thắng.”
Những mảnh mặt trời vỡ vụn đang
dần dần tụ lại, vẫn dật dờ
lẩn khuất bên trên bầu trời đầy mây mù
và gió lạnh.
Những đốm máu cùng sương vương trên
cỏ đă khô để lại những vết tím
bầm. Trong những khu vườn nhiều dấu
đất mới. Tất cả những người
bị thương đều được khiêng lên
một ngôi chùa và các nữ cứu thương đang
trổ tài băng bó. Vẻ vui tươi buổi sáng
biến mất trên khuôn mặt họ; những đồng
chí giải phóng đi đi lại lại gác các đầu
đường hoặc chia nhau tràn vào các nhà dân.
Nơi ngă ba, trong một quán nhỏ bỏ trống,
mấy người đàn ông bị thương
nhẹ đang ngồi rờ rịt vết thương.
Anh lính trẻ tên Thu đang bồng súng đứng gác
ở góc đường. Cạnh đám cỏ anh
ngồi, một vũng máu của ai đă khô, mấy
con ruồi xanh bay vật vờ, thỉnh thoảng vài
con chờn vờn trước mũi anh, muốn bám vào
mặt anh, anh đưa tay xua với dáng điệu
hết sức lơ đăng.
Một vài nhà, cửa mở toang, người ta
thấy các anh giải phóng, các cô cán bộ đi vào.
Thỉnh thoảng có một vài đứa nhỏ
chạy ra sân, tức th́ có một người lớn
chạy ra bế bổng đứa bé lên hốt
hoảng chạy vào nhà, mất hút. Không khí hoàn toàn yên
tĩnh. Vừa mới đêm qua, tiếng súng xé màn
trời, rung đổ nhà cửa, bây giờ tất
cả sự ồn ào đó đă lẩn mất cùng bóng
đêm, để lại một mặt trời vỡ
với những kinh hoàng c̣n bám chặt trên mặt
đất đầy máu, trên những cành cây găy đổ,
trên những ngọn lá xanh rụng đầy vườn.
Tất cả mọi nhà, mọi người đều
ngồi chụm vào một đám. Họ e dè nh́n
những anh lính miền Bắc mà họ được
phép gọi là quân giải phóng, đi lui đi tới,
nét mặt đôi khi phấn khởi đôi khi nghiêm
nghị bí ẩn. Họ không dám trả lời một
câu hỏi nào của đám người lạ mặt.
Dân trong xóm cũng ngạc nhiên không ít khi thấy vài
người láng giềng mới hôm qua c̣n chúc tết
nhau, sáng nay đă thấy họ cầm súng trong tay, cũng
quấn khăn xanh khăn đỏ nơi cổ và nh́n
họ bằng ánh mắt đe dọa, kiêu ngạo.
Những người này công khai đi thăm hàng xóm.
Một ông thợ ḷ rèn mới tối qua say rượu
lè nhè chửi nhau với mấy cô gánh nước ngoài
giếng, nay cũng xách súng đi thăm từng nhà.
Gặp ai anh cũng nở nụ cười thật tươi,
huênh hoang nói:
“Đồng bào yên chí đi, bà con yên chí đi. Vài
ba hôm nữa cụ Hồ vô, tha hồ mà liên hoan.”
“Bác không biết đó chớ. Tui theo quân giải phóng
lâu rồi. Tui nằm vùng mà.”
Mọi người nh́n anh ta với khuôn mặt xanh lè.
Ai cũng sợ, thường ngày anh chỉ là thợ rèn
hiền lành, chiều chiều say rượu hay nói
bậy, gây gổ với trẻ con, với các cô ở
đi gánh nước. Nhưng biết đâu anh không
chuốc oán mua hờn với nhiều người trong
xóm. Mấy đứa con trai con của một bà bán
thịt heo ở chợ cũng nô nức xách súng theo
giải phóng.
Một ông già ăn mày thường ngày ngồi trước
mấy quán nước, hôm nay mặt mày cũng
rạng rỡ hẳn, ông ta đi khắp các nhà tuyên
truyền ầm ĩ:
“Quân giải phóng tới rồi nghe, rồi đây ḿnh
sướng lắm. Tui nói thiệt chớ ai làm cái chi
ở đây mà tui không biết.”
Câu nói như một lời đe dọa, người
ta đưa mắt nh́n nhau, vẻ lo lắng buồn
rầu không thể nào che dấu được
nữa.
Đến khoảng trưa th́ quân giải phóng đến
thúc mọi người ra hết ở ngoài sân. Họ
kêu gọi những thanh niên đi tải đạn,
những thanh nữ đi tải thương. Mười
lăm tuổi trở lên là phải đi hết,
chỉ các bà mẹ mà họ gọi là mẹ giải
phóng, các sản phụ, các bà mang thai mà họ gọi
là chị giải phóng, th́ ở nhà giúp đỡ các
anh giải phóng cơm nước. Một số người
bị thương chịu không nổi đau đớn
đă trút hơi thở. Nhưng quân giải phóng không
đem chôn trong vườn nữa, họ chở đi
theo với đoàn bị thương lên miệt trên.
Đó là những con đường dẫn lên Tây Thiên,
lên ḍng Thiên An, lên các lăng tẩm. Giữa trưa,
những ngôi nhà buồn tẻ im lặng cũng có hơi
khói, dấu hiệu của buổi cơm.
Nhiều tiếng khóc bật lên thảm thiết. Trong
nhiều ngôi nhà cũng có nhiều người dân
chết v́ vết thương không đủ thuốc
thang băng bó. Người lính trẻ tuổi đang gác
ở ngă ba lắng tai nghe rồi châm một điếu
thuốc hút. Mấy người trong quán hỏi
vọng ra:
“Ai khóc ở đâu vậy?”
“Trong mấy nhà kia ḱa.”
“Chắc có người chết!”
“Dân mà, quân ḿnh chở đi hết rồi.”
Anh ta lại nh́n vào một ngôi nhà nằm khuất trong
một vườn cây, hỏi:
“Biết đây là ǵ không?”
“Nhà thờ cụ Phan đó.”
“Một vị anh hùng, một người cách mạng
hả?”
“Ừ.”
Người trong quán hỏi tiếp:
“Lấy xong mấy đồn chưa?”
“Chưa có tin ǵ hết.”
Người lính trẻ lại im lặng. Tiếng khóc
trong nhiều căn nhà nổi lên, anh ta châm một
điếu thuốc nữa rồi cau mày. Anh ngập
ngừng rồi mạnh dạn đi vào một nhà
gần nhất.
Đó là một ngôi nhà tranh nằm ngay mặt
đường gần ngă ba nơi anh lính đứng gác.
Anh ghé cửa nh́n vào, bên trong ngôi nhà, giữa bộ ván
gỗ, một xác chết nằm ngửa, cả một
gia đ́nh bu quanh kêu khóc. Một bà già, một người
đàn bà bế đứa con và hai đứa trẻ
đang xúm quanh xác chết: Con ơi là con ơi, anh
ơi là anh ơi. Ba ơi là ba, ba ơi. Tiếng người
mẹ, người vợ, tiếng những đứa
con thơ làm năo ruột người nghe. Anh lính Bắc
Việt tần ngần đưa tay đập nhẹ
cửa.
Cánh cửa không đóng, anh chỉ mới đưa tay
gơ đă tự động đẩy ra. Luôn đà anh
đi thẳng vào nhà. Hai người đàn bà hốt
hoảng nh́n ra, mấy đứa trẻ con nín khóc. Anh
đi tới gần nh́n xác chết, không phải
một mà là hai xác chết. Phía trong xác của người
đàn ông c̣n xác một đứa trẻ khoảng lên
ba, mặt mày tím bầm và c̣n dính đầy máu. Người
đàn bà già chen tới trước mặt anh như
che chở cho mấy xác chết, đôi mắt bà nh́n
người lính giải phóng với vẻ van nài
cầu khẩn:
“Ông ơi, chết hết rồi, không c̣n ai nữa mà
bắt đi.”
Bà chỉ vào người đàn bà đang bế đứa
nhỏ:
“Con nó một nách ba đứa con dại, ông tha cho
mẹ con tui…”
Người đàn bà già nói xong bật khóc, cô con dâu
và mấy đứa nhỏ lại khóc theo. Người
lính nh́n quanh gian nhà, đồ đạc thật nghèo
nàn, ở giữa nhà kê bộ ngựa gơ, bên chái trên
là bộ bàn ghế, đằng sau bộ bàn ghế là
một bàn thờ nhỏ, phía bên trái kê chiếc giường
tre. Trên bàn thờ c̣n nguyên mấy đ̣n bánh tét,
mấy đĩa mứt bánh. Trên chiếc bàn gỗ
phủ mảnh vải ny lông hoa ḥe c̣n chiếc b́nh bông
cắm một cành mai vàng. Mấy cái tách, mấy cái ly
úp trên một cái khay bằng nhôm. Anh dịu giọng
hỏi bà già:
“Nhà này của mẹ?”
“Dạ, c̣n đây là con cháu tui.”
Bà chỉ cả người chết lẫn người
sống. Người lính Bắc Việt mở cái khăn
quàng cổ của ḿnh đắp lên mặt người
đàn ông, rồi rút khăn mùi xoa lau bớt máu dính
đặc trên mặt đứa bé. Anh kéo cái chăn
đắp kín mặt mày thằng nhỏ. Vừa lúc
đó có tiếng động dưới bếp,
tiếng đập cửa rồi một khuôn mặt
đàn bà đầu rối bù ló lên:
“Bà Bổng ơi, có chút dầu mô cho tui một chút.
Có chút thuốc đỏ cho tui một chút. Nó sắp
chết rồi bà Bổng ơi.”
Người đàn bà lật đật đi lên nhà,
thấy hai xác chết nằm sơng sượt trên ván
gỗ, bà ta lùi lại:
“Ối trời ơi, mần răng ri ń. Mần răng
ri ń trời.”
Bà đưa mắt nh́n khắp mặt mọi người,
đến khi chạm phải anh lính giải phóng. Bà
đưa tay lên miệng, khuôn mặt đă tái xanh bây
giờ xám ngoét.
Bà già xô vai chị đàn bà:
“Chị Trùm đi về đi. Đừng có chạy
qua chạy lại nữa.”
Người đàn bà tên Trùm run lẩy bẩy:
“Bà Bổng làm ơn làm phước cho tui xin chút
thuốc rịt vết thương cho con Bê, máu ra
nhiều quá, nó xỉu rồi.”
“Con Bê há? Nó bị thương?”
“Nó bị thương hồi gần sáng. Trời
đất quỷ thần ôi, khổ cho gia đ́nh tui,
hồi trước tới chừ ăn ở có răng
mô mà trời bắt tan tành như ri rứa trời.”
Rồi nh́n hai xác chết, bà gượng lại:
“Trời đất hỡi, c̣n thằng Tanh với
thằng cu em răng mà ra thân thể ri ń trời!”
Nghe tiếng than của người hàng xóm, người
vợ bật khóc nấc lên, bà già bế lấy đứa
cháu trên tay con dâu, cũng mếu máo:
“Thôi con ơi, đi ra mà nấu chén cơm, đặt
bát nhang lên cho tụi nó, răng mà khổ ri trời,
nhang tàn khói lạnh…”
“Ai bắn ai giết nó đó?”
“Biết mô mà lần, chị Trùm ơi, chỉ
biết là con ḿnh, cháu ḿnh chết.”
Chị Trùm nh́n người lính giải phóng và
chợt nhớ là ḿnh vừa nói một câu hớ có
thể nguy hiểm, chị nín thinh. Nhưng người
lính vẫn lơ đăng nh́n về phía bàn thờ.
Những chân nhang đă tàn, hai ngọn nến cháy
gần lụi được thổi tắt từ lúc
nào. Một lát, thấy người đàn bà lật
đật đi xuống bếp, anh nói theo:
“Có ai bị thương đem qua bên chùa, quân cứu
thương băng bó cho.”
“Có, tui đă đem qua rồi, họ nói thuốc chưa
đủ cho quân giải phóng.”
Chị đàn bà đă khuất sau bếp. Tiếng chân
đi ṿng ra phía hẻm… Người lính giải phóng
nh́n xác chết một lần nữa rồi nói với
bà già:
“Thôi mẹ, mẹ đừng khóc nữa, phải có
người hy sinh cho chúng ta chiến thắng.”
Người đàn bà già không hiểu. Người
vợ đưa tay quệt nước mắt:
“Trời ơi là trời, mạ con tui biết sống
với ai ri ń trời.”
Có tiếng súng nổ, chỉ một tiếng một
rồi nín hẳn. Anh lính giải phóng chạy ra ngă ba
nh́n ngơ ngác. Một anh lính giải phóng đang gác
trước một cửa nhà cách chừng mười
thước giơ tay chỉ vào một bụi cây bên
đường. Người lính trẻ nh́n theo một
thanh niên đang cố ḅ ra mặt đường, anh
ta đă trúng đạn, máu lết từng vệt dài
trên mặt đất. Người lính trẻ chạy
lại. Bàn tay người thanh niên đưa ra muốn
được nâng đỡ nhưng anh cũng không c̣n
đủ sức nữa, cánh tay rơi bịch xuống
đất, miệng anh mấp máy một hai câu ǵ đó
rồi anh nằm lật ngửa, bất động. Người
lính giải phóng đứng sững lại. Tiếng người
bạn đằng xa hỏi:
“Chết rồi hả?”
Người lính trẻ gật đầu. Anh ta
đưa tay lên cổ như muốn sờ vào
chiếc khăn, anh ta đụng vào cổ áo và
cầm chặt lại. Phía đằng sau lưng có hai
chị nữ cán bộ đi tới, thấy anh đang
đứng như trời trồng, họ cười phá
ra:
“Đồng chí Thu làm ǵ đứng đó. Chỗ anh
đứng gác đằng ngă ba kia mà. Thôi ráng gác
đi, có lẽ tối nay bộ đội ḿnh rút lên
phía núi.”
Một cô nh́n xác chết:
“Sao vậy? Ai bắn đó? Đồng chí hả?”
“Không.”
Người bạn đứng đằng kia la lớn:
“Nó muốn chạy trốn, thấy nó lui cui sau
bụi cây, tôi nổ súng đó.”
Một cô nh́n xác chết, cười khinh bỉ:
“Thứ này béo tốt dữ, ăn bơ sữa
của Mỹ đây mà.”
Người lính trẻ đưa hai bàn tay của anh ra
nh́n, anh đi trở lại chỗ gác của ḿnh. Trong
một căn nhà khác lại có tiếng kêu khóc:
“Cứu tôi với, bớ làng nước ơi, con
tui, con tui…”
Chắc lại có một người nữa vừa
mới chết. Mấy cái đầu tḥ ra:
“Đằng nhà đó có chuyện ǵ vậy?”
“Người chết.”
“Mấy người?’
Anh đưa hai ngón tay làm dấu, rồi chợt
nhớ ra, anh lật đật đưa thêm một ngón
nữa. Trong quán có tiếng nói lớn:
“Vào đây ăn bánh chưng. Bánh chưng Huế
đây. Đồng chí nào ra thay dùm đồng chí
Thu.”
Anh lính trẻ lắc đầu nói:
“Thôi khỏi.”
Có tiếng chân chạy, phía xác chết đang nằm
tênh hênh bên đường có hai ba người
chạy tới, toàn đàn bà và con nít:
“Con ôi là con ôi, đi ra mần chi cho họ bắn
chết con ôi.” Giọng người mẹ kêu la
thảm thiết. Anh lính giải phóng đi tới
hỏi:
“Con bà?”
“Dạ, con tui.”
“Tại sao không ở nhà mà đi ra đường làm
ǵ giờ này?”
“Con em gái nó bị thương, nó đi kiếm đọt
lá chuối về rịt.”
“Thế à!”
Người lính đi về chỗ. Mấy người
đàn bà, mấy đứa con nít xúm lại ôm xác người
thanh niên đi khuất vào một ngơ nhỏ. Người
bạn đứng gác đằng kia bước lại
gần phía anh lính tên Thu:
“Đồng chí cần phải đề cao cảnh giác.
Cấp trên ra lệnh không được lân la nói
chuyện bừa băi, tụi nó đều là tay sai
Mỹ ngụy hết.”
Cả hai người đều trở lại vị trí
cũ. Phía dưới cầu, một đoàn người
đi lên, họ đang tải thương. Mấy cô gái
Huế c̣n nhỏ mặt mũi xanh lè đằng sau là
mấy anh giải phóng và mấy cô nữ cán bộ.
Họ đi thật nhanh, mặt lầm lỳ. Các cô gái
Huế hiện rơ vẻ sợ hăi và mệt đừ,
những người nằm trên băng ca máu me đầy
ḿnh. Anh lính trẻ đi ra phía đường nh́n
từng khuôn mặt người bị thương
đi qua. Đến người cuối cùng anh ta níu cáng
lại:
“Mịch.”
Người thanh niên ở trên băng ca bằng vải
trắng mở đôi mắt lờ đờ nh́n
mặt người gọi. Người lính tên Thu cúi
xuống:
“Mày bị rồi.”
Người bị thương nhếch môi đau đớn:
“Chắc tao không sống nổi. Thu có về Bắc
được nhớ cho thầy me tao biết.”
Anh ra dấu cho bạn tháo cái giây bạc đeo ở
cổ, thều thào:
“Nhớ đưa cho đẻ tôi. Thu.”
Thu vội buông tay bạn. Cô nữ cán bộ trong đội
cứu thương đă lên tiếng gọi hai cô gái
Huế ỳ ạch khiêng chiếc băng ca lật
đật đi lên. Người bị thương
cố nhướng mắt nh́n bạn và cố
đưa bàn tay lên vẫy mà không c̣n đủ
sức nữa.
Anh lính tên Thu sững sờ nh́n bạn bị khiêng
đi xa dần. Tay anh c̣n cầm chặt sợi dây
bằng bạc. Mịch. Anh gọi lớn. Nhưng
chiếc băng ca đă khiêng đi xa, c̣n lại
một tay, anh đưa tay dụi mắt ḿnh mà như
là vuốt mắt cho bạn. Phía dưới cầu
lại một tốp khác đi lên, họ cũng
tải thương. Anh vẫn cầm chặt sợi dây
bạc trong tay, sững sờ nh́n từng chiếc băng
ca khiêng qua mặt ḿnh. Nhưng anh không nh́n từng người
bị thương nữa.
Ngang qua mũi súng của anh, mấy cô gái Huế càng bước
mau, như sợ vô t́nh một viên đạn có
thể bay ra ghim vào người ḿnh. Anh ta để cho
mũi súng chúc xuống đất. Trong một cánh
cửa sổ từ một ngôi nhà phía ngă ba, nằm
trong một khu đất rộng và trong cây cối, anh
ta bắt gặp một đôi mắt thập tḥ nh́n.
Anh không dám nh́n lại, sợ đôi mắt đó
sẽ biến đi. Đó là đôi mắt của
một cô gái nhỏ khoảng mười lăm mười
sáu tuổi. Phía sau lưng cô gái có một bàn tay
chộp lấy vai áo:
“Đừng có nh́n mà.”
Một người đàn bà khoảng ba mươi
tuổi kéo tuột cô gái vào, giọng th́ thầm:
“Đừng có ngó. Tụi nó vừa bắn chết
một người gần ngă ba a tề.”
Cô gái rụt đầu… le lưỡi:
“Chị, có một tên Việt cộng đẹp trai
ghê đi chị. Nó gác ở ngă ba đó tề.”
Người đàn bà lôi tuột cô em nhỏ vào trong
mắng:
“Nói tào lao. Đi vô.”
Cô gái nhỏ đi vào. Người đàn bà bế
xốc đứa bé gái đang đứng ở
cửa buồng, nói vọng vào trong:
“Mệ, từ rạng sáng tới chừ chở
nhiều xác chết, nhiều người bị thương
quá mệ ơi.”
Tiếng người đàn bà già run run:
“Nhỏ nhỏ cái miệng, vô trong ni mà nói.”
Cả nhà xúm vào buồng. Thiếu phụ nói nhỏ vào
tai bà già:
“Chắc họ sắp rút lên trên tê hết rồi.”
“Tao cũng mong rứa.”
“Hồi hôm họ chết nhiều rứa thê
mệ.”
“Chắc sáng quân đội ḿnh đă lên rồi,
chắc họ chuẩn bị rút lui rồi đó
hỉ?”
“Chắc rứa.”
“Răng ôn mi chưa thấy lên?”
“Kẹt dưới đó rồi.”
Cô gái lại bỏ đi ra ngoài. Bên trong người
đàn bà nói giọng thiệt nhỏ:
“Đừng cho thằng Hợi nó xuống. Chút
nữa mệ lấy cơm vắt lên cho nó ăn không
nó xỉu.”
“Khi hồi có mấy tên đi vô nhà, cứ ngó lên
trần, tao sợ bắt chết.”
Bên ngoài, nơi cô gái nhỏ nh́n ra, anh lính Bắc
Việt c̣n đang đứng nh́n theo mấy cô nữ
cán bộ tập xe đạp, đẩy xe Honda. Các cô
bím tóc, quần xắn đến quá đầu
gối.
Cô gái nhỏ nh́n hai cô đẩy theo một cô
ngồi trên xe tuy có hai người giữ hai bên mà
chiếc ghi đông vẫn quẹo qua quẹo lại.
Mấy cô cười đùa thiệt vui nhưng anh lính
trẻ không cười. Mặt anh lầm lầm ĺ ĺ
nh́n xuống con dốc đang có mấy người
đàn bà chạy ra đường kêu cứu:
“Cứu con tui với, bớ làng nước ơi.
Cứu chồng tui cứu cha tui.”
Mấy cô nữ cán bộ lướt qua mặt anh, cười
cười nói nói:
“Trong này nhiều xe quá, thắng lợi rồi ḿnh có
xe đi.”
Một cô nói lớn:
“Đồng chí Thu tích cực quá hỉ!”
Cô ta nhại giọng Huế rất khó nghe. Anh lính
trẻ cau mày. Anh liếc vô trong căn nhà trước
mặt. Cô gái nhỏ vội thụt đầu vào. Không
hiểu bực tức hay buồn bă chuyện ǵ, anh ta
đưa súng lên nhắm thân cây trước mặt như
muốn bắn. Không có tiếng đạn nổ.
Mấy cô nữ cán bộ cười x̣a, thoáng cái
họ đă xuống tới lưng chừng dốc.
Một con chó ḿnh mẩy dính máu khô từ trong một
bụi cây lết ra, anh lính giải phóng lượm
một ḥn đá ném mạnh. C̣n chó c̣n đủ
sức để chạy bằng ba chân, nhưng chỉ
được một quăng, nó ḅ lết rồi nằm
bẹp một chỗ. Anh lính đi tới gần
đưa súng lên đầu con vật nhắm bắn,
nhưng cũng không tiếng nổ, con chó le lưỡi,
miệng đầy nước dăi, mắt ngước
nh́n người đứng trước mặt, ánh
mắt con vật làm người lính vội quay đi,
rồi trở về chỗ cũ. Mấy cô nữ cán
bộ đă ṿng trở lên, ngang qua mặt anh, mấy cô
vẫn ỳ ạch đẩy và người nữ cán
bộ ngồi trên xe trán đă lấm tấm mồ hôi
nhưng khuôn mặt lại hết sức tươi
tắn.
Chưa bao giờ thành phố Huế sống trong
một không khí đầy chết chóc, hoang mang như
thế. Tất cả những xác chết cũng như
những cán binh bị thương đều đă
được đưa lên ngả núi. Nhưng trong
mỗi xóm, cứ vài giờ là có một vài người
bị thương không được đầy đủ
thuốc men ngă ra chết. Từ sáng tới chiều,
tiếng khóc bật lên từ nhà này tới nhà nọ.
Tiếng khóc như một bệnh dịch truyền
nhiễm rất nhanh. Bên cạnh những sự chết
chóc đau buồn, c̣n phải nhắc tới cái
bệnh dịch hân hoan của các anh giải phóng.
Buổi sáng họ c̣n e dè với người dân, nhưng
tới trưa tới chiều, một nội lệnh
được truyền tai rất nhanh, họ thay đổi
thái độ thành những chiến sĩ rất nhũn
nhặn thương dân sống ḥa hợp với dân
dễ dàng. Những bao gạo từ trong các ngôi nhà cùng
với bánh tét bánh chưng, mứt bánh đầy
ứ trong mấy ngày tết được mang ra sân
chất lên những chuyến xe vận tải để
chở lên miệt trên, mà theo các anh giải phóng th́
họ mượn tạm cho quân đội giải phóng.
Vài hôm nữa, khi ổn định xong thành phố,
gạo sẽ rẻ vô cùng, không có cắt cổ như
Mỹ ngụy mà bán một bao tới mấy ngh́n đồng.
Họ cũng hô hào nhà ai có “cờ ba que” (cờ ba
que là cờ VN màu vàng có ba sọc đỏ) th́
phải đem ra đốt đi để thay bằng
lá cờ giải phóng, cờ bác Hồ. Những ai c̣n
gạo, c̣n bánh th́ phải đem ra tŕnh với quân
giải phóng, họ làm những cuốn sổ ghi tài
sản của dân để vài hôm nữa, khi cụ
Hồ vào sẽ đền ơn xứng đáng.
Họ cũng kêu gọi những thanh niên đừng
lẩn trốn mà phải ra tŕnh diện để
nhận lănh sự khoan hồng. Mấy nhà ḥm nên hy sinh
giúp đồng bào hoạn nạn lo chôn cất
những người dân bị chết, nhưng tất
cả những khu vực đều không được
đi. Trong mỗi vườn nhà đều chôn mộ
người thân. Họ cũng đề cao cảnh giác,
dân chúng không được ra đường, không
được tụ họp trừ khi được
giấy của quân giải phóng mời đi học
tập. Suốt ngày những cô cán bộ lân la vào nhà
này nhà nọ hỏi thăm t́nh cảnh của dân, làm
thân với các bà, các cô, các anh các chị. Những bà
già mới nh́n họ như nh́n những vị hung
thần, bây giờ họ phong lên làm mẹ giải phóng,
các thiếu phụ được làm chị giải phóng.
Những người lớn tuổi đều tiếp
đón họ bằng ánh mắt nghi ngờ, đề
pḥng nhưng trẻ con th́ có vẻ khoái lắm.
Chỉ mới từ sáng tới chiều, chúng đă
tụ xung quanh các cô nữ cán bộ, các anh bộ
đội. Chúng vui thích theo dơi các cuộc tập xe
đạp của các cô nữ cán bộ hoặc chúng
bu quanh các anh giải phóng. Nhà nào cũng có quân
giải phóng tới thăm hỏi, họ nấu cơm
hay ăn uống ngay trong nhà. Các cô gái khỏe mạnh
được mượn đi nấu cơm cho bộ
đội. Những thanh niên, những cậu trai mười
bốn mười lăm được mượn
đi tải súng đạn, hoặc được phát
súng, được chia toán để giúp các anh bộ
đội sắp tổ chức những buổi
học tập. Mới ngày đầu, nhiều thanh niên
đàn ông trốn chui nhủi trong xó buồng, trên
trần nhà. Nhưng tới ngày thứ hai, nhiều người
nghe các anh giải phóng kêu gọi đă ra tŕnh
diện: Ai ở nhà đó, chúng tôi không bao giờ dám
động tới một người dân, chúng tôi là
bạn dân mà. Đó là câu nói thuộc ḷng của
mấy anh giải phóng. Mặc dù các khu vực đều
cấm liên lạc với nhau, mấy nhà chung quanh
chỉ được hỏi han dăm ba điều mà
có nhiều tin đồn lắm. Chẳng hạn như
buổi trưa ngày thứ hai, nhiều người
được tin là chiếc xe sang trọng nhất
của cố vấn Mỹ ở Huế bị trưng
dụng, một cấp chỉ huy của Việt
cộng đă lái đi khắp thành phố. Một tin
khác lại nói rằng nhiều xe nhà binh do các anh
giải phóng lái chở đầy nhóc bánh chưng bánh
tét và gạo chạy qua các ngả đường. Các
anh lính giải phóng vui vẻ hơn, họ hỏi han dân,
và khi có người đàn bà nào nhắc tới
những tin đồn th́ họ cười tin tưởng:
“Quân giải phóng đă chiếm được
Huế, bây giờ cố giữ để văn hồi
trật tự, chờ cho các tỉnh đánh xong là ḥa
b́nh.”
Nhiều người ngơ ngác v́ sự phát giác trên.
Họ nghe ra dô nhưng nhà nào có ra dô đều bị
các anh giải phóng trưng dụng hết. Họ
tịch thu và nói rằng, trong lúc này, đồng bào
chỉ nên nghe lời của quân giải phóng, có
thể Mỹ ngụy tung những tin sai lầm làm dân
chúng hoang mang. Nhiều người dấu được
ra dô nhưng không dám mở ra nghe nữa. Những nhà có
người thân chết đă t́m ra được
vải để chít khăn tang, một vài nhà có mùi hương
khói bay ra trước con mắt nh́n hết sức
dửng dưng của các cán bộ giải phóng.
Họ ăn uống thả cửa. Ngày tết gia đ́nh
nào cũng dự trữ đủ thức ăn. Nhưng
qua ngày thứ hai thứ ba hết thịt, một vài nhà
lén làm thịt heo thịt gà, quân giải phóng len
lỏi t́m kiếm được mua lại của dân
bằng một giá rẻ mạt. Rồi họ tổ
chức tập họp vào ngày thứ ba. Buổi sáng cho
thanh nữ, buổi chiều cho thanh niên. Đồng
thời họ rút quân tập trung vào một vài nơi,
tạm rời nhà dân chúng, nhưng lúc nào các cán
bộ cũng len lỏi từng nhà lấy cớ là
đi thăm hỏi.
Buổi học đầu tiên được tổ
chức trong một ngôi chùa rộng, hoặc các trường
học. Người ta không khỏi ngạc nhiên khi
thấy xóm này xuất hiện một người đại
diện cho dân, rồi xóm khác một người đại
diện. Những người này mới hôm qua là anh
đạp xích lô hay ông già say rượu sống lây
lất đầu xóm. Dân chúng cũng không khỏi
ngạc nhiên khi thấy tiếng cười vang ở
một vài người mới mấy hôm trước có
vẻ lù đù nhất, bây giờ trở thành
những nhân vật hết sức kích động,
họ đi lối xóm hô hào, tuyên truyền cho quân
giải phóng.
Ngay chiều thứ hai, mồng ba tết, có một vài
vùng đă được chứng kiến cảnh
xử tội. Một vài nhân vật trong xóm bị
bắt kết tội là theo quân Mỹ ngụy. Họ
bị đưa vào một trường học, các
thanh niên nam nữ được nhóm lại. Những
bộ mặt quen thuộc nằm vùng là người
đủ thẩm quyền kể ra nhiều tội
trạng của bị cáo nhất. Những bản án
được kết thúc vội vàng. Nhiều kẻ
bị dẫn đi, rồi ngay buổi chiều hôm
đó nhiều tin đồn có người đă
bị xử tử. Mọi người chưa tỉnh
hồn bởi một đêm mồng một súng nổ
ghê hồn, một buổi sáng mở mắt dậy
thấy đầy máu me xác chết, th́ đă bắt
đầu lo sợ v́ những cuộc t́m bắt
xử án của quân giải phóng. Mặc dù ngoài
mặt họ tỏ ra rất tử tế với dân chúng,
nhưng đồng thời những vụ bắt
bớ, xử tội đă bắt đầu; trường
học, nơi của trẻ thơ, chùa chiền nhà
thờ, nơi của đạo giáo, bỗng trở thành
nơi hội họp, nơi ṭa án nhân dân thành lập.
Thỉnh thoảng có vài tiếng súng lẻ tẻ
hoặc một tràng. Mọi người như những
con chim bị thương vội vàng nằm xuống
đất, kẻ chui tọt dưới gầm bàn,
gầm phản. Trẻ con cũng đă quen với không
khí căng thẳng sợ hăi, đă nh́n thấy máu me
chết chóc, hễ cứ nghe thấy tiếng súng là không
cần đợi ai nhắc nhủ, cứ chạy t́m
ôm chặt người lớn, hoặc sát mặt
xuống nền đất. Nhưng tiếng súng chỉ
lẻ tẻ rồi im lặng kéo dài, không có ǵ thêm
ngoài tiếng cười nói của các anh giải phóng
ở ngoài đường ngoài tiệm.
Đêm đến, trong bầu không khí im lặng đến
ngộp thở, người ta nghe tiếng cú rúc.
Tiếng cú rúc đầy khắp thành phố. Người
ta hồ nghi, giữa bom đạn, giữa không khí
sặc mùi tử khí hôi hám, lũ cú dám ṃ về làm náo
loạn cả thành phố đang tê liệt. Tiếng cú
hay tiếng người làm mật hiệu rú trong đêm?
Người ta nín thở và chờ đợi, không
biết chờ đợi cái ǵ sẽ đến, nhưng
linh tính sẽ c̣n nhiều điều xui xẻo, tang thương.
Những người chồng bỗng nh́n vợ tŕu
mến hơn, những bà mẹ ôm con thơ như
sợ chúng sắp biến mất. Cỏ cây, nhà
cửa, người, súc vật bỗng như cảm
thấy một sự gần gụi khó tả.
Người ta không thể biết thêm ǵ ngoài những
tin tức do các nữ cán bộ, những anh giải phóng
tuyên truyền. Trong những buổi họp, nhiều
cụ già lên tường tŕnh về những tin
tức. Những cô gái đi họp về kể
lại rằng một ông già bán cháo ḷng được
bầu lên làm chủ tịch buổi học tập,
mở đầu buổi họp, ông thường lên nói
về t́nh h́nh chiến cuộc trong nước. Đă
dốt chữ lại không quen nói, ông thường
gọi trật tên các đài phát thanh và dùng sai danh
từ nhưng chả ai dám sửa đổi hoặc cười.
Ông bàn về tin tức chiến sự và luôn luôn
mở đầu bằng câu: Theo đài a, bê, xê th́ quân
giải phóng đă chiếm được Sài G̣n và các
thành phố, các tỉnh khác. Quân giải phóng hoàn toàn
làm chủ t́nh thế. Buổi họp nào ông cũng
nhai đi nhai lại câu đó. Các cậu sinh viên
bấm nhau. Các thiếu nữ nh́n nhau ngẩn ngơ. B́nh
thường chả mấy khi được nghe
một câu chọc cười đă như thế, nhưng
lúc này chả ai c̣n dám cười được
nữa. Những buổi họp gần như bị
bắt buộc nhưng họ vẫn rỉ tai nhau, làm
thế nào để những thanh niên, đàn ông tránh
mặt bớt, đừng để cho các anh cán
bộ nh́n thấy.
Đến chiều ngày thứ hai th́ không khí hân hoan
của các đồng chí giải phóng bớt sôi
nổi. Sau khi một ông thợ may bị t́nh nghi là liên
lạc viên của Mỹ ngụy bị giết, xác
vất ở một ngă ba, sau khi hai thanh niên trong một
cái hầm nhỏ bị bắn v́ mang tội trốn tránh
quân giải phóng, các nữ cán bộ đă rút hẳn
vào những địa điểm được
chỉ định sẵn, không lui tới thăm
viếng thường trực các nhà dân nữa. Cho
đến hôm đó tiếng súng lẻ tẻ bắt
đầu nổ ở các miệt xa, về hữu
ngạn.
Các anh giải phóng nói với nhau là xe tăng của
Mỹ có lên thám thính miệt quốc lộ, có thể
xảy ra ác chiến. Nhưng nguồn tin đó không
chắc chắn ǵ, ở một vài vùng đă có các
anh giải phóng đi rao:
“Các thanh niên, đàn ông lo chuẩn bị mười
lăm ngày gạo để đi dự một lớp
học về đường lối của quân
giải phóng.”
Họ đào hầm, hố cá nhân, tải vũ khí. Không
khí căng thẳng hẳn lên. Ngoài đường,
trong vườn, ở các đầu hẻm vang
tiếng xẻng cuốc của các anh giải phóng
đào hầm.
Thanh niên, đàn ông bắt đầu t́m chỗ
trốn. Từ các cánh cửa sổ hé mở, những
khuôn mặt già trẻ ló ra nh́n những anh giải phóng
đào hầm, mày mặt lầm ĺ, không ai dám hỏi
thăm vui vẻ như mấy giờ qua nữa.
Đến đêm thứ ba th́ cả thành phố
bỗng bật dậy v́ hỏa châu, v́ đại bác.
Các anh bộ đội, các cô nữ cán bộ không c̣n
thấy ở đâu nữa, họ như bóng ma lẩn
vào đêm tối. Người ta chỉ nghe thấy
tiếng kêu khóc quen thuộc của đêm mồng
một tái hiện. Chưa ai kịp đào hầm để
tránh bom, đêm hôm đó các miệt Từ Đàm, Thành
Nội, Gia Hội, Kim Long là những miệt ăn
chịu đại bác nặng nề nhất.
Buổi sáng hôm sau, người ta vội vă đào
hầm. Hầm đào ngay trong sân, trong vườn,
hoặc đào ngay trong nhà. Các anh giải phóng chỉ c̣n
gác lẻ tẻ ở các góc đường. Dân chúng
tràn ra đường, hỏi thăm nhà này nhà nọ.
Có vài gia đ́nh lục đục đi tản cư,
nhưng các anh giải phóng đứng gác các ngả
đường ra hiệu không cho ai được
đi hết. Người ta đào hầm vội vàng,
tất cả các cửa sổ, cổng sắt đều
được dỡ xuống để làm hầm. Có
nhà không đủ vật liệu, họ ra trại
mộc, hoặc chặt tre.
Vài trại mộc chỉ thoáng cái là không c̣n một
tấm ván. Hết ván, người ta bê cả ḥm,
nắp ḥm về để chống đỡ nắp
hầm bằng đất. Có nhà đào được
hầm rồi cả nhà xuống núp thấy chật
chội quá lại phá ra làm lại. Đến trưa
th́ đại bác lại câu lên, đang ăn cơm có
kẻ bỏ cả cơm nước chui xuống
hầm. Các anh giải phóng chui xuống hố cá nhân.
Họ không ở trong nhà dân nữa, nhưng khi có
tiếng súng, họ ở đâu không biết, tràn vào
các vườn, các đường, đen kín các
hố cá nhân.
Khi tiếng súng tạm dừng, cảnh đào hầm
lại tái diễn. Vài đám căi nhau chửi nhau v́
tranh nhau ván ở trại mộc hoặc đất cát.
Cuộc pháo kích bất th́nh ĺnh làm một số dân
chúng và một số quân giải phóng chết hay
bị thương. Họ lại vào từng nhà bắt
thanh niên thanh nữ đi tải lên miệt núi. Người
ta nhốn nháo đồn đại với nhau là
họ đặt bộ chỉ huy trên đó. Về phía
bên tả ngạn, bộ chỉ huy đặt ở phường
Gia Hội. Ở vùng này hoạt động hăng hơn,
mặc dù đại bác câu lên đều, họ
vẫn tổ chức những buổi họp, học
tập. Trong thành nội, quân giải phóng hoàn toàn
chiếm hết. Có những cán bộ nằm vùng,
những thanh niên mất tích từ lâu, bỗng thấy
xuất hiện. Họ đeo băng, họ cầm
đầu, họ đi lùng từng nhà hỏi tội.
Vài cuộc rượt bắt, vài người bị
bắn gục ngă giữa đường, xác người
để đó không ai dám đem đi chôn, có xác
đă bắt đầu có mùi, máu khô đọng,
sặc mùi tanh và ruồi nhặng bu đầy, trông
hết sức kinh khủng.
Bắt đầu những ngày Huế mở cửa
địa ngục.
Mời
xem tiếp phần 5
|