Chương
2
Nhà thờ ḍng Chúa Cứu thế
Những tiếng khóc tấm tức đă rời
rạc, nhạt nhẽo dần. Tất cả các
ngọn đèn cầy cháy đă lụi tàn, nhưng bên
trong nhà thờ không c̣n đủ không khí để
thở. Thái đă cố gắng dồn được
cho má tôi một chỗ nằm khá thoải mái. Dĩ
nhiên được một chỗ nằm như thế
là đương đầu với sự nguy hiểm
nhiều hơn. Tôi và em Thái cũng chọn một
chỗ nằm trên hàng ghế nguyện. Mọi người
khác chiếm những chỗ kín đáo, như chui
giữa các dăy ghế trống, hoặc dưới chân
bàn, chân ghế. Họ hy vọng những vật
chặn mảnh mai đó sẽ chống đỡ
phần nào bom đạn cho họ. Chúng tôi chọn hai
chiếc ghế dài gần nhau, nhờ vậy hai chị
em có thể th́ thầm tṛ chuyện. Bầu trời bên
ngoài gần như yên tĩnh, lâu lâu, điểm vài
tiếng nổ xé nát. Gạch đá, kính vỡ lại
loảng xoảng rơi. Tôi lo lắng:
“Hay ḿnh xuống đất nằm đi.”
Thái cản:
“Cứ nằm đây. Trái bom nếu nó trúng th́ đất
cũng tung lên, mấy cái bàn, cái ghế nhằm nḥ
chi. Nằm ở đây dù ǵ cũng c̣n dễ thở,
chị. Không can chi mô!”
Bây giờ th́ thấy chưa can chi. Nhưng
khi can chi th́... Nhưng trong lúc hoảng sợ, c̣n nghe
tiếng người trấn an, cũng đỡ
nhiều lắm. Mà xuống sàn, chắc tôi cũng không
chịu đựng với hơi người, tiếng
rên rỉ kêu la của người bị thương
chưa được băng bó. Cứ nghe tiếng
nổ là má tôi chồm dậy:
“Xuống đất. Xuống đất hết đi
bây.”
Thấy kêu hoài mà không nghe con cháu trả lời, má tôi
càu nhàu rồi cũng chịu phép. Tôi nằm thẳng,
mắt mở lớn nh́n lên trần nhà mà mái đă
bị vạt nhiều góc, thỉnh thoảng thấy
những ánh sáng xanh lè xẹt qua rồi tiếp theo
tiếng nổ long trời lở đất. Qua khung kính
đủ màu trên ṿm nhà thờ, có những ánh sáng lù
mù mà tôi đoán là của hỏa châu, v́ đó là
thứ ánh sáng chỉ chập chờn, chập chờn
rồi tắt ngúm, điểm vào những tia lửa
xẹt và những tiếng nổ lớn gầm thét.
Tôi cố nằm thật im, cố ôn lại những phút
kinh hoàng đầu tiên của thành phố Huế và cũng
để quen dần với biến cố khủng
khiếp đang kéo dài. Mới chưa qua một ngày mà
thời gian dài như cả tháng, cả năm. Đă có lúc,
hy vọng có bừng lên. Đó là lúc ngồi ở bệ
đá, tôi nghe lời bàn tán của các người
chạy loạn:
“Chắc một hai bữa rồi về. Mấy người
lính giải phóng nói họ chỉ ở chơi ăn
Tết với đồng bào bảy ngày rồi họ
đi.”
Mới ngày thứ nhất đă bao nhiêu người
chết, máu đổ. Chúng tôi chỉ mới chịu
được có một ngày. C̣n những ngày
tới...
Tôi đang nghĩ mông lung để dằn nén cơn
sợ hăi th́ bỗng bàn chân tôi bị ai nắm
lấy, kéo một cái. Tôi rụt chân lại, không dám
la, chỉ ú ớ rồi ngồi rột dậy. Thái
nghe tiếng động, bên ghế kia cũng bật
ngồi dậy theo.
“Chi rứa chị. Chi rứa?”
Giọng Thái nhỏ nhưng đầy sự lo âu. Tôi
há miệng mà không nói ra lời, quai hàm tôi cứng
ngắc. Trước mặt tôi, Trúc cũng đă
ngồi dậy tự bao giờ, rên khẽ:
“Chị ngó coi. Ai nơi a tề?”
Nó nhào qua, bấu chặt lấy vai tôi. Hai mắt tôi
mở trừng trừng. Chỉ một màn đen. Bàn
tay của ai đó đă buông chân tôi ra. Nếu không có
ánh hỏa châu bên ngoài vừa xẹt sáng th́ tôi không
nhận ra cái bóng đen đang chồm tới phía chúng
tôi.
“Em...em...”
Giọng Thái:
“Chị đừng sợ.”
Cái bóng vấp vào chân ghế, rồi một giọng nói
yếu ớt:
“Cho em ngủ chung với, em sợ quá chị ơi.”
Nhận ra giọng nói của Thu, cô em họ, tôi
vẫn chưa hoàn hồn. Nhưng tôi đă mở
miệng được:
“Nói nho nhỏ. Sợ chi vậy?”
Thu th́ thầm:
“Em nằm bên cạnh cái bà mà khi chiều ḿnh
thấy đó. Bà đó ôm cái bọc nhỏ trước
ngực. Nằm mà cũng ôm khư khư không
rời...”
“Th́ kệ bà nớ. Có chi mà sợ chớ.”
“Em ngửi thấy mùi hôi, hôi lắm.”
Tôi nạt nhỏ:
“Nhiều chuyện. Chạy cả ngày, có người
sợ đái trong quần. Hôi chớ răng không hôi.
Mai mốt em cũng hôi như cú.”
“Không phải. Em nằm sát bên cạnh, thấy ghê ghê.
Bà cứ khóc rỉ rả như con dế kêu, rồi
cứ nói lầm bầm trong miệng như điên, mà
cái mùi... nó kỳ lỳ... Em sợ lắm.”
Thái phải co chân lại, nằm sát một đầu
ghế để nhường chỗ cho Thu ghé vào.
Đêm đầu tiên xa nhà, ngủ ở một nơi hoàn
toàn xa lạ với sự sợ hăi giày ṿ, không
biết thân mạng ḿnh sẽ ra sao, gần hai giờ sáng
mà tôi vẫn không chợp mắt được
mặc dù quá mệt mỏi. Bỗng nhiên tôi nghe
một tiếng kêu rú thất thanh và tiếng rú không
ngừng, vẫn tiếp tục. Tôi hoảng sợ
đứng bật dậy, và trong khi đứng
dậy, tôi đạp nhầm một người nào
đó đang nằm giữa ḷng ghế. Tức th́
bắp đùi tôi bị véo một cái đau điếng
buốt lên tận đầu, nhưng cũng nhờ
đó mà tôi tỉnh táo được. Nhiều
tiếng kêu, tiếng lào xào bàn tán, rồi đột
ngột rơi vào sự im lặng, như mọi người
đă biến mất hết trong bóng tối. Rồi
mọi người lại hiện ra, toàn những đầu
là đầu khi một que diêm lóe lên và một
ngọn đuốc trên bục được thắp sáng.
Cha Sở đang bước lên cái bục gỗ
nhỏ, giọng lo lắng hỏi:
“Có chuyện chi rứa, bà con? Có ai bị thương?”
Có tiếng khóc từ một góc xa, tiếng một người
già rụt rè lẫn trong tiếng rên rỉ của ai
đó.
“Dạ thưa cha, có người... có người
đau bụng... đẻ.”
Nhiều tiếng thở ra. Nhiều tiếng bầu
bầu khó chịu. Trong hoàn cảnh này không ai c̣n đủ
sức lo cho ai, thương cho ai ngoài thân ḿnh. Nhiều
cái đầu ngă xuống, nhiều người nằm
ngủ trở lại. Cha Sở càng lộ vẻ lo
lắng:
“Có ai biết đỡ đẻ không? Có ai là y tá không?”
Im lặng.
Cha Sở lớn tiếng hơn, nhắc lại:
“Ai biết đỡ đẻ, xin giúp... Tôi yêu
cầu quí vị...”
Không có ai trả lời hết. Tiếng x́ xào cũng
ngưng bặt và giọng cha Sở hoàn toàn rơi vào
im vắng. Ánh đuốc lung linh chiếu lờ mờ
khuôn mặt đầy tuyệt vọng của cha. Cha
Sở đốt một ngọn đèn cầy rồi
cố mở đường đi xuống giữa hai hàng
ghế.
“Có ai không? Có ai không?”
Tiếng cha Sở càng lúc càng lạc lơng, vô vọng.
Cha Sở vẫn cố gắng len lỏi đi xuống
thêm những dăy ghế cuối. Buổi chiều người
ta đă giành nhau quay ghế thành từng khu riêng cho
từng gia đ́nh. Những người đến sau,
chịu thiệt tḥi, nằm tràn ra sàn nhà, chỗ nào
lọt được để nằm hoặc ngồi
là họ tranh giành nhau.
“Có ai làm ơn. Xin Chúa chúc phúc cho người
hiền lương, xin bà con rủ ḷng thương xót...”
Sự tận tụy của cha Sở rồi cũng
được một vài người đáp ứng khi
cha xuống đến cuối pḥng. Vài bóng người
đi theo cha, tôi không nh́n rơ họ nhưng tôi biết
trong đám đó có Thái.
Người ta khiêng người đàn bà chuyển
bụng đẻ lên căn gác lửng nơi dành cho
ban nhạc trong các buổi lễ hoặc buổi
giảng. Căn gác này hoàn toàn trống, nó gần mái
nhà và được coi là nơi nguy hiểm nhất,
không ai can đảm lên đó để núp bom đạn.
“Lên đó dễ sợ lắm, dễ ăn bom...”
Một giọng nói x́ xầm, không chút xót thương
người mà gần như c̣n mừng cho ḿnh kiếm
được chỗ tốt hơn. Tôi âm thầm
cầu nguyện, năn nỉ bom đạn ngoài kia, xin
ngừng lại một lúc cho người đàn bà qua
cơn hoạn nạn.
Trên căn gác lửng, tiếng rên la của người
đàn bà bắt đầu thảm thiết hơn,
rền rĩ hơn. Con Thu bạo dạn nghểnh đầu
nghe ngóng, nó phê một câu:
“Chị ơi, cái bà ni không biết dị chi hết.
Đẻ mà la quá trời...”
Con Thu chưa làm mẹ, nó làm sao hiểu được
cảnh người đàn bà qua biển mồ côi
một ḿnh. Tôi đă sinh đẻ, tôi biết cơn
đau đẻ hành hạ người đàn bà như
thế nào, nhưng lúc này tôi cũng không thể chia
sẻ ǵ được cho bà ta. Tôi đă mệt quá,
cơn đau đẻ của bà làm cho tôi càng mệt
thêm. Không khí như từ đâu tràn vào, xông tới và
tôi thở phào, nhẹ nhơm khi nghe tiếng con nít khóc oa
oa chào đời. Tiếng khóc mạnh mẽ, bất
chấp, không biết có đem sự tin tưởng, hy
vọng, sức lực tiếp cho ai không, nhưng
với tôi th́ có. Cám ơn tiếng khóc chào đời
trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng.
“Khỏe re. Hết mệt cái lỗ tai. Bà nớ đẻ
rồi.”
Giọng Thu có chút vui vẻ mà dửng dưng. Tiếng
khóc của đứa trẻ lại nổi lên,
mạnh dạn, như thi đua với tiếng bom,
tiếng đạn bên ngoài đang hứng dậïy. Tôi
nhớ một câu trong Thánh Kinh: Mừng rằng ḿnh
đă sanh một người cho thế gian... Đêm
nay, đâu chỉ ở trong cái góc tả tơi, trong
sự sống sự chết này có một con người
mới tới, mà trong thành phố Huế, trong ly
loạn, vẫn c̣n có những tiếng khóc khác
nữa, đang lăn xả vào đời. Tiếng khóc
sơ sinh trong căn nhà đang bắt lửa cháy, trong
lúc viên đạn đă đi đến nửa
chừng. Tiếng khóc ra đời để kết thúc
những đau đớn vết thương trên thân
thể người mẹ đang giờ hấp
hối... Tiếng con nít khóc càng làm tôi nhớ tới
các con tôi lúc này đang ở Sài G̣n. Có chuyện ǵ
xẩy ra nơi đó không? Có không? Nếu có
chuyện ǵ th́ ruột mẹ sẽ đau, sẽ đứt,
nếu có chuyện ǵ xẩy ra cho mẹ, ruột
của các con cũng đau, cũng đứt...
Ngọn đuốc trên bệ đá đă được
thổi tắt, nhưng trên căn gác vẫn c̣n chút ánh
sáng rọi xuống. Nguời mẹ đă hết rên
đau. Đứa bé đă hết khóc. Tôi h́nh dung chị
đàn bà đang ngủ. Hài nhi cũng ngủ. Hai
giấc ngủ ḥa hợp b́nh yên mặc kệ giông băo,
bom đạn của cuộc đời đang ào
ạt tới.
Nhưng đêm cũng bắt con người ngừng
bớt sự giết chóc. Tiếng bom thưa thớt hơn
và những tràng súng lâu lâu mới điểm để
không có sự trống trải của đêm dài. Tôi
chợp mắt được.
Gần sáng, tôi bỗng thức tỉnh. Quên là đang
ngủ trên cái ghế dài, hẹp, tôi ngồi bật
dậy như khi c̣n ở nhà ḿnh. Tôi chao đảo
muốn té. Vừa lúc đó tôi cũng chợt nhận
ra hoàn cảnh của ḿnh lúc này. Trước hết tôi
đảo mắt t́m má tôi. Bà vẫn nằm co
quắp, đầu gối lên cái giỏ đựng
quần áo. Thu và Thái nằm ngược chiều, đầu
châu vào nhau, cũng co quắp người mới đủ
chỗ. C̣n sớm lắm, bầu trời chưa sáng
hẳn nhưng bên ngoài vẫn chiếu vào những
luồng sáng của hỏa châu. Không c̣n tiếng bom, không
c̣n tiếng súng. Bên ngoài im vắng đến ngột
ngạt và không hiểu chuyện ǵ đă xẩy ra? Tôi
định qua đánh thức má tôi dậy. Nhưng
vừa bỏ chân xuống chưa tới mặt sàn, người
tôi như bị điện giựt. Rơ ràng tôi đạp
lên một thân người, nhưng cái thân cứng như
cây củi, mà lạnh ngắt. Hỏa châu lại
chiếu vào, lại cho tôi nh́n thấy một xác
chết nằm giữa hai hàng ghế, mắt vẫn c̣n
mở trừng trừng như hướng lên những
lỗ hổng trên mái nhà để thấy ánh sáng. Không
biết tôi đă dùng bao nhiêu sức lực, hay cái thân
tôi biến thành cái ḷ xo nhảy bắn tới chỗ
Thái nằm, chồm lên đầu Thái và Thu. Hai đứa
em bừng tỉnh, cuống quíu ôm chặt tôi:
“Chi rứa chị? Chi rứa?”
Tôi ú ớ. Hai đứa em ngơ ngác nh́n quanh. Mọi
người vẫn c̣n ngủ say. Lúc này ánh sáng ngoài
trời khá tỏ, đă chui vào từ những lỗ
hổng trên mái nên có thể thấy toàn cảnh tuy không
được rơ ràng. Thái vẫn chưa thấy xác
chết nằm dưới đất nên hỏi:
“Chuyện chi rứa chị. Có chi mà chị sợ?”
Không dám lên tiếng, chỉ đưa tay chỉ. Con Thu
rụt đầu, bưng tai:
“Trời đất. Coi tề. Dễ sợ quá, sợ
quá...”
Thái ra dấu cho chúng tôi im lặng. Thái đă từng
là một cán bộ xây dựng nông thôn nên thấy người
chết cũng đă nhiều, nó không sợ hăi.
“Chị và Thu ngồi yên ở đây. Ngồi bỏ
chân lên ghế. Để em...”
Thái bỏ đi, nói là t́m cha Sở. Mấy chị em tôi
ngồi co rút người, ôm chặt lấy nhau. Phía bên
kia, má tôi quá mệt mỏi, c̣n ngủ nhừ. Một
lát sau xác chết được khiêng ra ngoài. Nơi
chỗ nằm của xác chết vừa được
mang đi, c̣n để lại một vũng nước
vàng bầy nhầy máu mủ chảy ra từ vết thương.
Thái lấy khăn mùi soa cột ngang miệng mũi
rồi đi dọn dẹp. Xong xuôi, Thái đổi
chỗ cho tôi:
“Chị nằm đó nghỉ đi. Em qua bên ghế
kia.”
Thái nhướng mắt, lắng tai nghe ngóng:
“Bên ngoài im rơ. Khi hồi em khiêng xác chết ra ngoài
cũng thấy lặng như tờ. Chắc yên
rồi. Chờ sáng coi ra răng rồi ḿnh về nhà.”
Tôi vẫn không tin tưởng:
“Biết ra răng mà dám về. Đợi coi người
ta răng th́ ḿnh theo....”
“Rứa chị nằm ngủ đi. Coi con mắt
chị đỏ kè tề...”
Nhưng chưa kịp nằm xuống, Thu đă kéo
giật tôi:
“Chị ơi, chị...”
“Chi nữa?”
“Coi cái bà đó tề. Bà đó khi túi nằm gần
em, răng chừ ṃ tới gần đây rồi ń. I,
chi coi...”
Từ dưới nền đất, cách chừng hai dăy
ghế, một người đàn bà lồm cồm ḅ
dậy. Chị đứng thẳng, tay vẫn ôm cái
bọc khư khư. Lúc này trời sáng, tôi nhận ra
được cái bọc bằng vải, bên trong là ǵ?
Một đứa bé? Sao không thấy cựa quậy nhúc
nhích ? Đứa bé bịnh nặng? Thiếu ăn?
Hết hơi sức? Đôi mắt của chị đàn
bà không c̣n chút thần sắc. Chị liếc nh́n chúng
tôi bằng ánh mắt khờ khạo rồi cúi
xuống đung đưa cái bọc vải, giọng
rền rĩ:
“À... ơi! Con ngủ đi con... À ơi... Ru hời ru
hỡi là ru... Bên cạn th́ chống, bên su (sâu) th́ chèo...
Ngủ đi con... Con ngoan... con ơi là con!”
Giọng chị rít lên:
“Con ơi là con. Con ơi!”
Chị đàn bà bật khóc. Tôi không hiểu tại
sao chị ru con mà khóc? Chắc hôm qua nhà chị bị
cháy, chồng chị chết rồi, chị bồng
đứa con chạy thoát? Thái nằm day mặt về
phía chị đàn bà, hỏi:
“Con chị đó há?”
Chị đàn bà gật đầu. Gật tới
mấy cái liên tiếp.
“Nó mần răng mà chị khóc? Nó đau ốm chi không?”
Chị đàn bà ôm chặt cái bọc vải hơn, hơi
quay người như sợ người ta giành
mất:
“Không răng. Không răng hết.”
“Gia đ́nh chị mô hết rồi?”
“Chết. Chết hết. Chết. Chết hết, c̣n
mô nữa...”
Chị ngưng lại. Nước mắt đă nḥe
nhoẹt trên gương mặt xanh xao. Tôi không dám nh́n
khuôn mặt méo mó khổ đau đó. Con Thu nói
nhỏ:
“Chắc mụ nớ điên. Ngó cặp mắt
lờ đờ... dễ sợ...”
Lắc đầu, nghiêm mặt. Cũng không thể la
đứa em. Nhiều người đă trở
dậy. Nhiều người bạo gan đi ra ngoài t́m
nước súc miệng, rửa mặt. Cha Sở
trở lại, yêu cầu thân nhân phải khiêng
những kẻ bị thương ra khu nhà ngang. Ở
đó có một số thanh niên t́nh nguyện giúp đỡ,
săn sóc, băng bó cho người bị thương.
Nhưng không ai nghe lời, họ nghĩ dù người
bị thương, được ở bên trong nhà
thờ, gần gụi thân nhân vẫn an toàn hơn. Cha
Sở phải cùng số thanh niên đi len lỏi vào các
dăy ghế. Nhiều người được khiêng ra
ngoài. Thái cũng hăng hái cùng đám thanh niên giúp cha
Sở. Má tôi cũng đă dậy từ lúc nào, và Thái
đă t́m được nước, dấp ướt
khăn đem tới cho má tôi lau mặt. Tôi lần
tới bên má, ngồi giữa má tôi và một bà
cụ già khác.
“Má”.
Tôi nắm chặt tay bà. Hơi ấm. Thân thuộc. Êm
ái. Tôi hơi tựa người vào mẹ:
“Má. Má có ngủ được không?”
“Gần sáng th́ mệt quá, má ngủ mất hồi mô
không hay. Họ có bắn nhau nhiều không?”
“ Ít thôi, má.”
“Ừa. Hèn chi ngủ yên, không bị giật ḿnh.”
Tôi không kể cho má tôi nghe vài chuyện đă
chứng kiến hồi nửa đêm về sáng. Má tôi
lại hỏi:
“Liệu có yên không con. Mần răng mà về coi nhà
cửa. C̣n gia đ́nh anh con trên Từ Đàm nữa,
bặt vô âm tín như ri làm má lo trong bụng quá.
Chị nờ, tui c̣n thằng con trai, vợ nó, con nó
đang kẹt trên Từ Đàm...”
Má tôi lại bật khóc. Bà cụ ngồi bên cạnh
an ủi:
“Ai cũng chịu chớ riêng chi ḿnh chị. Khóc cũng
không làm chi được. Tui, thằng con trai bị
họ bắt từ bữa đầu, mấy đứa
cháu chạy lạc mô không thấy, chết sống ra răng
cũng không biết... Tui cũng bấy trong bụng
chị nờ...”
Khuyên nhủ người đồng cảnh ngộ
lại làm động mối thương tâm, bà cụ
cũng ứa nước mắt. Bà đưa tay
chỉ ông cụ đang ngồi phía đầu ghế
đối diện, tay ôm bọc quần áo, nói:
“Ông nhà tui đó tề. Chừ chỉ c̣n hai cái
mạng già với nhau c̣n con cháu trẻ không thấy mô...
Ai cũng khổ hết.”
Chút tĩnh lặng trong nhà thờ bị quấy động.
Mọi người đă trở dậy. Tiếng
ồn ào như ong vỡ. Mấy cánh cửa gỗ lim
chắc chắn được hé mở, ánh sáng lùa vào.
Thái bỏ đi ra ngoài. Một lát sau Thái trở vào
cho biết bên ngoài yên lắm. Nhiều người cũng
đi ra nghe ngóng, có người c̣n ra tận đường
phố đứng nh́n lui nh́n tới rồi trở vào
thông tin cho mọi người. Lát sau, ngay trong sân nhà
thờ, đă có nhiều nhóm tụm năm tụm ba nh́n
ra con đường vắng ngắt như đă hoang
phế từ bao lâu rồi.
“Lợi dụng đang yên, ḿnh ra ngoài kiếm nước,
chị.”
Mấy chị em dè dặt đi theo sau lưng Thái ra ngoài,
tới giếng nước. Mọi người đă
tới đây đông nghẹt và đang giành giựt
nhau với chỉ một cái gàu múc nước.
Giếng nước nằm cạnh một dăy nhà
bếp nối liền với dăy nhà ngang nằm mé
một khu vườn rộng trồng đủ
loại cây trái. Qua một ngày một đêm tù túng bên
trong nhà thờ, lúc này tôi mới hít thở được
khí trời, nh́n thấy gốc cây ngọn cỏ và
mặt đất c̣n b́nh yên.
Bầu trời nặng trĩu màu xám và bắt đầu
rơi xuống những hạt mưa nhỏ như
bụi. Tôi kéo vạt áo măng tô lại và cài nút kín
cổ v́ không khí bên ngoài giá lạnh. Cả đêm qua
bên trong nhà thờ, đầy hơi người, đầy
lo âu, tôi đă không thấy lạnh mà c̣n nóng bức.
Lúc này đứng bên giếng nước, nh́n cỏ cây,
mưa bụi, không khí trong lành, tôi thở hít không
ngừng, thở hít ham hố như sợ ngày mai, ngày
mốt sẽ không c̣n được thở trong
bầu không khí như vậy nữa.
Một lúc sau tôi cũng phải rời giếng nước
và vườn cây xanh um. Thu bỏ vào bên trong nhà
thờ trước. Nó đă lấy được
một lon bơ đầy nước. Thái rủ tôi ra
đường coi có ǵ lạ không. Con đường
như dài, rộng hơn ngày thường, trống
vắng và đầy bí hiểm hơn ngày thường.
Chúng tôi ṿng lại phía sau, chỗ có một con
đường tráng nhựa chạy thẳng, dẫn
tới một bờ sông. Cũng có một vài người
ra đến đó. Chúng tôi hỏi nhau, cũng không ai
biết ǵ hơn chúng tôi cả.
Sau cùng, hai chị em tôi đi vào một xóm nhỏ.
Mọi nhà đều cửa đóng then gài giữa
những khu vườn nhỏ tắm mưa. Cũng c̣n
vài nhà có người. Thấy chúng tôi, họ tḥ đầu
ra ở những cánh cửa hé và hỏi thăm:
“Mấy người ở mô. Thấy ra răng
rồi? Họ c̣n đó hay đă đi chưa?”
Chúng tôi c̣n biết ǵ hơn họ? Chúng tôi lắc
đầu. Con đường phía trước không
biết chuyện ǵ đang chờ đợi? Lúc đó,
có một toán người từ bờ sông chạy ngược
lên, họ ra dấu cho chúng tôi trở lại. Và
rồi đám đông cùng theo chân chúng tôi, tụ trong
sân nhà thờ. Họ cho biết họ ở phía bên kia
cầu, họ đă chạy loạn và muốn trở
về. Nhưng ở bên kia cầu lính Việt cộng
đang canh giữ.
“Thấy chúng tôi, họ đuổi trở lại nhà.
Chúng tôi chạy đại bất kể, họ
đưa súng lên nhắm bắn. Rứa là tụi tôi
chạy bán sống bán chết. Họ c̣n bắn đuổi
theo dọa làm chúng tôi chạy té xấp té
ngửa...”
Đám người này vẫn chưa chịu vào bên trong
nhà thờ để cha Sở xếp đặt chỗ
ở. Họ cứ lớ ngớ nh́n ra đường,
mỏi mắt ngóng chờ một người nào đó
chạy tới để hỏi thăm tin tức nhà
cửa của ḿnh. Nhiều người c̣n có người
nhà ở lại.
Và lạ lùng thay, không biết ở đâu chui ra, trong
sân nhà thờ xuất hiện nhiều bộ mặt
lạ. Họ như đă ở sẵn đây từ
đêm rồi. Họ tản mát đâu phía sau khu vườn
rộng, hay chính cả bên trong nhà thờ, lẫn trong dân
chúng. Thái kéo tay tôi:
“Ḿnh đừng đứng đây. Mấy người
này sao thấy nghi quá.”
Hai chị em đi vào trong. Má tôi và bà cụ bên
cạnh đều ngước mặt lên chờ đợi
và nôn nóng hỏi:
“Có thấy chi không? Có nghe chi không?”
Tôi lắc đầu:
“Không thấy chi hết má. Bên ngoài yên lặng như
thành phố ma vậy đó.”
Má tôi cắn môi, nuốt nước miếng, nhăn
nhó:
“Biết rứa cứ ở nhà. Thà chết ở nhà
c̣n hơn chết bờ chết bụi.”
Tôi c̣n biết lời ǵ để an ủi má tôi. Thu
tới ngồi bên cạnh, th́ thầm:
“Chị. Em biết có con đường tắt đi
về nhà ḿnh.”
“Họ gác ở hai đầu cầu. Không qua về
được.”
“Đường ni không phải qua cầu. Ḿnh đi
tới bờ sông, may ra có đ̣. Chỗ ni vắng
lắm chị.”
“Không được. Đừng có đi ẩu. Để
coi người ta làm răng th́ ḿnh làm rứa.”
Đến chín giờ sáng vẫn không nghe một tiếng
súng nổ. Bên ngoài im lặng như tờ. Th́nh ĺnh, có
vài người chạy vào báo tin:
“Đường đi được rồi. Bên kia sông,
người ta đang tràn qua, nhiều lắm.”
Mọi người ùa ra. Tôi và Thái cũng chen chúc trong
đám người cố ra khỏi cửa nhà thờ.
Giữa sân, tụ tập tới mấy nhóm chạy
loạn tới. Đàn ông, đàn bà, bà già, con nít. Người
đang hoa tay chỉ chỏ, kể chuyện, người
khóc thút thít. Trẻ con nắm chặt áo người
lớn với mặt mũi c̣n kinh hoảng thất
sắc. Tôi chen măi mới vào được bên trong,
đứng gần một chị đàn bà:
“Chị ở mô chạy tới đây?”
“Tui ở dưới sân vận động. Nhà tui cháy
rụi rồi.”
“Mới cháy?”
“Không. Cháy từ bữa qua lận. Không c̣n chi
hết. Tui chừ tứ cố vô thân. Trời ơi là
trời...”
Chị đàn bà khóc. Tôi hỏi tiếp:
“Đi đường thấy chi lạ không? Răng
lại chạy tới đây?”
Chị đàn bà hỉ mũi, đưa tay quẹt nước
mắt:
“Bữa qua dưới tui nhà ni cháy th́ chạy qua nhà
nọ. Họ tới đông lắm, không cho ai đi ra
khỏi xóm. Sáng ni thấy có người chạy ngoài
đường, mới chạy đại theo...”
“Họ để cho đi?”
“Họ chỉ bắt thanh niên thiếu nữ tập
họp rồi đi khiêng người bị thương.
Nghe nói có nhiều xác chết, phải đem chôn. Có rút
đi mô hết, đang như kiến rồi biến như
ma rứa đó. Giữa đường, thấy xác
chết bất loạn.”
Đang nói, thấy một người quen trong nhóm bên
cạnh, chị nhào tới ôm chầm lấy, khóc bù lu
bù loa:
“O ơi là o. Tan nát hết rồi o ơi...”
Người đàn bà lớn tuổi mắt rưng rưng,
nhưng cố gắng an ủi hàng xóm:
“Khóc chi tào lao rứa. Có người ta có ḿnh
chớ. Mấy đứa nhỏ mô mà không thấy?”
Chị đàn bà lúc này mới nh́n quanh. Mấy đứa
nhỏ con chị đang ngơ ngơ ngác ngác nh́n
mấy người lớn khóc lóc, bàn tán. Chị túm
mấy đứa con lại:
“Biểu đứng một chỗ không th́ lại
lạc. Nói không nghe... O ơi, tụi nó đây ń o.
Từ bữa qua tới giờ chưa đứa nào có
cái chi nhét vô miệng... Mà nhà cửa, bàn thờ ông bà
ông vải cháy rụi rồi o ơi...”
“C̣n thằng? Mô không thấy?”
“Tụi nó bắt rồi. Đi theo mấy người
kia, không biết ra răng...”
“Con cháu tui cũng bị bắt đi. Nghe nói chỉ
đi khiêng tải người bị thương
rồi về. Hết việc th́ về chớ giữ
lại mần chi. Ḿnh cứ cầu trời khấn
Phật đi o nờ...”
Chị đàn bà vẫn khóc. Mấy đứa nhỏ
níu chặt áo mẹ. Mưa phùn cùng nước mắt
ướt đẫm mặt tôi. Tôi cần một chút
không khí để thở. Lách ra ngoài, tôi gặp Thái
đang nói chuyện với một người đàn
ông cùng với gia đ́nh của ông ta. Nhiều bọc
lớn nhỏ, một đôi thúng gính đựng đầy
đồ đạc lỉnh kỉnh. Người đàn
bà chắc mới sinh, đứa bé c̣n nhỏ lắm,
bọc trong một cái chăn cũ. Bà ta thở mệt
nhọc, đứa con gái chừng mười một
tuổi ôm đứa em trên tay, hết nh́n cha đến
nh́n mẹ.
“Bác ở mô chạy về đây?” Thái hỏi.
“Tui ở trên Phú Cam. Trên đó tụi nó c̣n đông
lắm.”
“Rứa răng bác chạy được?”
“Liều. Liều cậu ơi. Nhờ Chúa che mắt nên
mới thoát được tới đây. Tụi nó
đông lắm, chỗ mô cũng thấy tụi nó...”
“Bác có nghe tin tức chi không?”
“Cũng có nghe sơ sơ. Họ nói tụi giải phóng
chiếm hết thành phố Huế rồi. Vài ba
bữa nữa ông Hồ vô thăm ăn mừng
chiến thắng. Họ nói ông Hồ mà vô đây, bà
con được Bác phát gạo ăn không hết...”
“Ở đó mà có gạo. Cứt khô cũng không có.
Từ bữa qua tới chừ gia đ́nh tui mười
một mạng chưa có hột cơm hột cháo mô
trong bụng ń... Phách tấu...”
Người đàn ông vừa chen câu nói đeo kính
cận. Xung quanh ông ta có năm sáu đứa nhỏ,
đứa nắm áo, đứa nắm quần, kêu cha
cha, con đói, mặt mũi méo xẹo, tèm nhem. Thái
lại hỏi:
“Rứa chớ bác ở mô chạy tới đây
rứa?”
“Bên tê sông.”
“Bên đó ra răng, bác?”
“Mấy ông vô tới nơi là khổ rồi. Bét
mắt đă thấy họ đầy nhà, đầy vườn.
Cha nào cũng ốm cà tong cà teo, đói đeo vàng hai
con mắt mà toàn nói phách tấu không rứa. Người
sống bấn loạn, người chết, người
bị thương cũng bấn loạn, khiêng vất
trong sân nhà người ta rồi vô nhà thấy chi cũng
vơ cũng vét. Con trai con gái mới lớn bắt
đi tải thương, chôn xác. Vô nhà kêu gọi
nấu cơm cho quân giải phóng, mượn gạo, mượn
mắm muối. Nói là mượn chớ cướp
của dân thôi mấy ông mấy bà ơi... Nhà tui con
đông, khi mô cũng trữ gạo, đồ khô, cá
mắm. Rứa mà họ chở đi hết không
chừa cho tui một nạm, c̣n nói phách, bữa mô Bác
vô, gạo phát không cho dân... Ở nhà cũng chết
đói, thôi liều mạng chạy qua đây xin cha
gạo cứu mấy đứa con nít trước
đă...”
“Dân bên đó chết nhiều không bác?”
“Th́ bữa đầu đạn ở mô bắn như
mưa. Chết chớ răng không chết. Sơ sơ
tới sáng mùng hai, có mấy nhà chung quanh tui cũng
mất sáu mạng...”
Th́nh ĺnh một người đàn ông mặc áo măng
tô đen đi tới. Cái áo măng tô th́ dài mà người
hắn th́ ngắn nên cứ kéo phệt đất.
Chắc chắn cái áo này cũng là của mượn
thôi. Hắn hỏi:
“Bác từ đâu tới đây?”
Giọng ông ta lơ lớ không phải miền Bắc,
cũng không phải miền Trung, khi th́ như Quảng
B́nh hay Hà Tĩnh. Ông ta nh́n người đàn ông
đeo kính gằm gằm. Người đàn ông đeo
kính tránh luồng mắt của ông ta, cúi đầu.
Mấy đứa nhỏ bíu chặt lấy người
cha, sợ sệt. Thái bấm tay tôi. Chúng tôi lảng xa
ra. Thái th́ thầm:
“Thằng cha đó thấy khả nghi quá. Thôi đừng
hỏi thăm nữa.”
Bây giờ trong các nhóm khác chạy vô sân nhà thờ, có
những người bị thương được
khiêng theo. Thái đẩy vai tôi:
“Chị đi vô trong đi. Đứng đây cũng không
làm chi được. Để em ở lại coi một
lúc rồi vô sau.”
Tôi thấy nhiều người từ phía trong đang
đi ra. Tôi t́m băng ghế của ḿnh và ngồi
xuống. Má tôi vẫn ngồi bó gối. Bà cụ già
bên cạnh đang têm trầu. Những lá trầu đă
héo, vôi đă khô. Đứa em dâu đưa con cho tôi
bế để ra ngoài t́m cách nấu cơm. Mấy
đứa em tôi khi chạy loạn, bỏ lại
hết, mỗi đứa đem theo một túi gạo.
Nhưng tới trưa, đứa em tôi vẫn chưa
thổi cơm được v́ không có nước. Người
ta bu quanh miệng giếng không c̣n chỗ chen chân, và v́
nhiều người dùng quá nên các mạch nước
rỉ ra không đủ cho những chiếc gàu chờ
chực múc. Thái nhanh nhẹn ra xóm kiếm được
mấy ổ bánh ḿ nguội đâu từ nhiều ngày
và thịt hộp. Chưa bao giờ chúng tôi thấy
những hộp thịt gà, hộp bơ, đồ
viện trợ Mỹ quí giá tới như vậy. Ngày
thường tôi không nuốt nổi mấy thứ này.
Trời đánh c̣n tránh bữa ăn. Tôi nhớ
một câu các cụ thường nói. Vậy mà đang
ăn nửa chừng th́ tiếng súng lại nổ,
nổ rất ṛn ră ở phía bờ sông. Khu nhà thờ
quay mặt ra đường lớn, phía trước
mặt nhà thờ, bên kia đường là ruộng.
Khu ruộng khá lớn, chạy dài tới tận con
đường dẫn ra nhà dây thép. Phía sau lưng nhà
thờ, cách một xóm nhỏ là bờ sông. Một nhánh
của sông Hương, chảy từ Cầu Ḷn,
về tới Ga Huế, qua Bến Ngự, Phủ Cam,
tới An Cựu và c̣n chảy dài xuôi về đâu
nữa, tôi không biết. Càng về chiều tiếng súng
thưa dần và vợ Bé nấu được
nồi cơm. Chúng tôi không đem theo chén bát nên
mỗi người phải lấy tay ḿnh nắm cơm
chia cho nhau. Nhưng khi nồi cơm vừa bày ra, th́
cả chục bàn tay, cả chục miếng miểng,
chén sứt mẻ ch́a ra. Một lũ trẻ con đói
ùa tới. Nồi cơm nhỏ phải chia năm
xẻ mười... Phần c̣n lại chẳng
được bao nhiêu, chúng tôi lại cứ nhường
qua nhường lại. Rồi mỗi người cũng
chia nhau ăn một ít. Hèn chi má tôi thường
mắng chúng tôi mỗi khi hoang phí: hạt cơm là
hạt ngọc của trời. Vợ Bé cạo nồi
đưa thêm cho tôi một miếng cơm cháy nhỏ.
Nhưng miếng cháy bị giựt và một đứa
nhỏ chạy biến, lẫn vào đám đông
nằm ngồi nghiêng ngửa.
Nh́n theo thằng bé, tôi chợt bắt gặp chị
đàn bà ôm bọc vải. Chị ngồi dựa vào
chân ghế, đôi mắt ngơ ngác thất thần
thỉnh thoảng nh́n người này người kia
rồi cúi xuống ôm chặt cái bọc vải.
Chị ru con, ru hời ru hỡi.
Hai ông bà cụ già đem theo nhiều bánh tét và
mức. Họ cũng ǵn giữ kín đáo, và đang
ăn với nhau. Ông cụ lén đưa cho tôi một
khoanh bánh tét. Tôi định từ chối th́ Thái
đă vội cầm lấy, cám ơn. Một miếng
ăn lúc này c̣n hơn cả vàng bạc, châu báu. Nào vàng
bạc châu báu có bỏ vào miệng nhai được
cho đỡ cơn đói đâu! Vừa cắn
một miếng bánh, tôi bỗng dựng người
lại. H́nh như có người nào trong đám đông
đem theo được cái radio chạy pin. Họ
vặn âm thanh nhỏ lắm nhưng tôi cũng ráng nghe
lơm bơm. Đài Phát thanh Huế lọt vào tay họ. Tin loan
báo Sài G̣n đă thuộc quân giải phóng...
“Miền Nam đă thua. Giải phóng toàn quốc.”
Giọng một thanh niên trẻ. Tiếng nói phát ra
từ chiếc radio biến mất. Một giọng khác:
“Cất đi. Trời ơi là trời. Khổ
lắm, đừng nghe, đừng nghe...”
Tôi chợt nhớ là lúc soạn đồ đem đi,
tiện tay tôi có bỏ vào túi vải một cái radio
nhỏ xíu. Nhưng hiện nó nằm trong túi vải nào
th́ tôi không nhớ. Đă đánh thắng toàn quốc.
Miếng cơm trong miệng tôi nghẹn cứng
lại.
Đêm thứ hai ở nhà thờ không khí và quang cảnh
đă gần quen thuộc hơn. Một vài ngọn
đèn dầu tim lửa thật nhỏ và đuốc
chỉ được đốt một ngọn, mà
tới 9 giờ tối phải tắt. Cả đèn
dầu nhỏ cũng phải tắt hết.
Đêm nay, mọi người x́ xào nói chuyện nhiều
hơn. Thái kể cho tôi nghe về những điều
đă thấy được trong ngày. Ngay dưới sàn
nhà thờ, phía dưới có một phần hầm
thấp. Ở dưới đó người ta chen chúc
nhau để giành chút an toàn, nhưng bẩn thỉu và
hôi hám lắm. Ngay ở phía trên, nhà nguyện và nhà
giảng, trần cao, thoáng mà chúng tôi c̣n không chịu
nổi hơi người ta. Trẻ con ỉa đái tùm
lum, cũng đă nặng mùi lắm rồi. Trong đêm,
có thêm mấy người đàn bà chuyển bụng
đẻ, chúng tôi nghe thêm được vài tiếng
khóc vào đời. Tiếng khóc con trẻ làm tôi
nhớ tới mấy đứa con tôi. Lúc này chúng
đang ở Sài G̣n. Theo tin tức phát thanh của
họ th́ Sài G̣n cũng đă mất. Chồng con tôi
ra sao? Có chạy loạn? Có ly tán? Trái tim tôi có lúc như
bị bóp nghẹn, không thở nổi.
Cũng có lúc quá mệt mỏi, tôi ngủ thiếp
đi. Nhưng cơn ngủ quá ngắn. Tôi bị đánh
thức dậy bằng một tiếng la hoảng
hốt, thất thanh:
“Chết tôi. Chết tôi rồi. Bà con ơi!”
Nhiều tiếng đồ vật rơi loảng
xoảng. Vài tiếng kêu rú theo. Giọng kêu lúc đầu
lại lớn hơn, khủng khiếp hơn:
“Việt cộng tới. Việt cộng tới. Ám sát.
Giết người. Chúng nó tới.”
“Đâu? Đâu? Trời đất ơi, Việt
cộng.”
Người ta chồm dậy, nhảy xuống đất,
bám chặt nhau. Hốt hoảng, lá ó, kêu gào....
“Cha ơi, cứu chúng con. Chúa ơi!”
Ngọn đuốc trên bệ cao được đốt
lên, chiếu lung linh h́nh bóng cha Sở.
“Bà con yên lặng. Chuyện chi? Chuyện chi xẩy
ra?”
“Dạ thưa cha...”
“Dạ nghe la... Dạ có người la... Việt
cộng tới.”
“Ai la. Ở đâu?”
“Dạ thưa cha. Ở đây. Dạ ông ni ń. Ông la
quá.”
Vài ngọn đèn nhỏ được đốt thêm.
Mọi người nh́n về hướng có tiếng nói.
Chẳng thấy ǵ ngoài những chiếc đầu cao
thấp lố nhố. Cha Sở kêu:
“Ai vừa la đó. Đứng dậy coi.”
Một người đàn ông bị đẩy đứng
lên trên ghế. Ánh đuốc chiếu tới, một
khuôn mặt c̣n thất thần, giọng lập
cập:
“Dạ con, cha ơi. Con nằm mơ, dễ sợ quá.”
“Thằng cha mắc dịch.”
Nhiều tiếng nguyền rủa. Người đàn
ông nói tiếp:
“Nằm mơ thấy Việt cộng...”
“Trời đất. Thấy Việt cộng mà làm như
thấy ma quỷ.”
“C̣n hơn nữa tề.”
Ai đó nói. Một giọng cáu kỉnh:
“Mả cha cái thằng vô duyên. Mả cha thằng nào
đạp vào bụng ông muốn pḥi mỡ.”
“Tui cũng bị đạp trúng mắt.”
“Tui ń. Tui bị chân đá vô mặt. Tổ cha
thằng mô con mô, tao biết tao bẻ cẳng.”
Một giọng đàn bà:
“Cha ơi! Nó c̣n la nữa. Cha đuổi nó ra ngoài.”
“Cho nó ra ngoài để nó thấy Việt cộng,
cha. Làm người ta hết hồn.”
Nhiều giọng phụ họa. Nhưng cha Sở
chỉ bảo mọi người im lặng và nên
nằm xuống ngủ tiếp để lấy sức
v́ chưa biết chuyện ǵ c̣n xẩy ra nữa.
Mọi người nghe lời. Nhưng cha Sở vừa
đi th́ thằng cha ngủ mớ làm người ta
sợ đái ra quần không biết thấm thía
chuyện ǵ mà bỗng ré lên cười. Tiếng
chửi rủa lại nổi lên. Người đàn ông
im bặt. Bên ngoài lạnh lắm, làm quá dám cái đám
đông kia khiêng hắn vứt ra ngoài mưa đêm.
Nhưng không ai ngủ yên được. Trời chưa
tảng sáng dă nghe tiếng quát tháo giận dữ
của cha Sở. Lại ngồi dậy, lại lắng
nghe. Từ bệ đá, cha Sở và đám thanh niên
trật tự đang lôi ra một cô một cậu.
Một thanh niên chỉ vào mặt hai cô cậu, có
lẽ họ đang run.
“Chưa biết sống chết ra răng, c̣n làm
chuyện tồi bại.”
Mọi người chen nhau đứng cả trên
ghế để nh́n cho rơ mặt cặp thanh niên nam
nữ. Một giọng nói phát ra từ đám đông:
“Đánh chết chúng nó đi.”
“Đuổi ra ngoài.”
“Đừng trả áo cho nó.”
Cha Sở lại phải dàn xếp, làm đám đông
dịu lại và đưa cặp nam nữ xuống nhà
ngang. Cha sợ để ở lại đây cặp nam
nữ kia sẽ không yên với đám đông đang căng
thẳng. Mà xuống nhà ngang cũng là một h́nh
phạt quá nặng rồi, ở đó, họ phải
ngồi chung với những xác chết, may ra th́ c̣n
được ở chung với những người
bị thương.
Cả một xă hội bát nháo đang thu nhỏ
lại trong khu vực Ḍng Chúa Cứu thế. Có kẻ
sinh, người chết, có ganh ghét, phẫn nộ,
hằn học mà cũng có thương yêu. Trẻ sơ
sinh được cho nằm trên căn gác nhỏ. Người
nào bị thương, bệnh, chết được
khiêng xuống phía sân sau, trong dăy nhà thấp. Sự
chung đụng gây ra nhiều vụ căi vă, kiện
tụng, kể cả đánh lộn. Nhiều người
chạy loạn đă cạn lương thực. Cha
Sở phải lấy gạo dự trữ của nhà
thờ phân phát. Dù đă có một số thanh niên t́nh
nguyện xung vào đội trật tự, cũng không
sao ngăn cản nổi người ta giành giựt,
đánh nhau lỗ đầu chảy máu để tranh
bát gạo, miếng thức ăn. Giọng cha Sở không
c̣n thanh, lớn như trước mà khản đặc
lại. Cha đă ḥ hét, can thiệp, lo lắng quá
nhiều cho đám đông chạy vào nhà Ḍng. Gạo
chắc cũng không c̣n bao nhiêu để phát
tiếp...
Có một người không hề để ư tới
gạo, tới thức ăn. Không xếp hàng, ch́a tay lĩnh
ǵ hết. Đó là chị đàn bà ôm cái bọc
vải, ngồi yên lặng ở một góc, chăm
chỉ ru đứa con ngủ. Cả mẹ không ăn,
cả con không bú. Cha Sở đem tới cho chị
một vắt cơm, chị ăn cầm chừng, h́nh
như rứt rứt từng hột cơm bỏ vô
miệng nhai sẽ đỡ bớt cho chị một chút
ray rứt chứ không phải để mưu cầu
sự sống? Riết rồi người ta cũng
mặc kệ chị, không ai thèm chú ư.
Ngoài đường cũng không c̣n người
chạy loạn. Cả thành phố như ch́m ngủ
trong mưa phùn và giá lạnh. Cha Sở đă đóng
cửa nhà thờ, chừng này người đă
thiếu không khí để thở.
Mời
xem tiếp phần 3
|