Tự Lực Văn Đoàn Tập Đại Thành Chữ Văn Quốc Ngữ TRẦN BÍCH SAN |
KHÁI QUÁT BỐI CẢNH GIAI ĐOẠN 1932-1945 Sau khi đặt nền đô hộ ở Việt Nam, nh́n thấy quá khứ của ta nặng về Hán học, người Pháp muốn cắt đứt liên lạc văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Để hướng tinh thần người Việt về với Pháp, chữ Hán cũng như chữ Nôm cần phải triệt bỏ. Do đó, Pháp cấp bách hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục mới phục vụ cho guồng máy cai trị. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở trong Nam (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm). Kể từ khi Nam Kỳ hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp, từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh được thay thế bằng chữ Pháp và chữ Quốc Ngữ. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm chạp hơn. Kỳ thi Hương chót ở ngoài Bắc vào năm Ất Măo 1915, ở Huế năm Mậu Ngọ 1918. Chế độ giáo dục và khoa cử Nho học thực sự cáo chung với kỳ thi Hội cuối cùng năm Kỷ Mùi 1919 ở Huế. Tuy vậy măi đến năm 1932 bộ máy quan lại của triều đ́nh Huế mới băi bỏ việc dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ Pháp hay Quốc Ngữ [01]. Qua việc sử dụng tiếng Pháp trong việc giảng dạy, Tây học ngày một phát triển dần dà tạo ra lớp trí thức mới trong xă hội. Từ 1930 các trường cao đẳng, đại học Pháp Việt với những niên khóa liên tiếp sản xuất khá đông đảo giới trí thức mới. Họ không c̣n là những nhà Nho lỡ thời của giai đoạn trước như Phan Khôi, Tản Đà, Lê Dư, Phan Kế Bính, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đôn Phúc, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Ngô Tất Tố, Ngô Văn Triện… Họ là những thanh niên trẻ trung không thấm nhuần hoặc biết rất ít Hán học, nhưng lại thâm nhiễm tư tưởng Tây phương qua giáo dục học đường, sách báo, văn học Pháp, hoặc trực tiếp sống, sinh hoạt, thở hút không khí xă hội một nước văn minh khi du học ngoại quốc. Các nhà trí thức mới ư thức được sự tự do b́nh đẳng, trên con đường canh tân đất nước họ là những thành phần tiến bộ. Tự Lực Văn Đoàn ra đời vào thời điểm này đáp ứng đúng lúc nhu cầu của xă hội, đứng lên tấn công vào thành tŕ luân lư, phong tục, văn hóa cũ để giải quyết băn khoăn về tư tưởng, thỏa măn khát vọng t́nh cảm…Về phương diện văn học, cách viết c̣n nặng phần biền ngẫu của thời Nam Phong Tạp Chí được Tự Lực Văn Đoàn thay thế bằng lối văn mới đơn giản, trong sáng, mạch lạc. TỰ LỰC VĂN ĐOÀN Năm 1930 Nguyễn Tường Tam tốt nghiệp Cử Nhân Khoa Học (Vật Lư) du học ở Pháp về nước với một quan niệm mới về xă hội, văn chương, nghề báo, xuất bản. Năm 1932 chủ trương tờ Phong Hóa (tục bản/đổi mới), và năm sau, thành lập Tự Lực Văn Đoàn. Tự lực mang ư nghĩa tự lập, tự sức ḿnh gây dựng nên cơ sở báo chí, không dựa vào chính phủ hay một thế lực tài chánh nào để giữ tư cách độc lập [02]. Tự Lực Văn Đoàn có 7 người (thất tinh) [03], thời gian đầu văn đoàn có 6 người là Nhất Linh [04], Khái Hưng [05], Hoàng Đạo [06], Thạch Lam [07], Thế Lữ [08], Tú Mỡ [09], năm 1938 kết nạp thêm Xuân Diệu [10]. Cơ quan ngôn luận của Tự Lực Văn Đoàn là tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay. Tôn chỉ [11] của văn đoàn gồm 10 điều mà chủ đích được thu gọn vào những điểm quan trọng sau: 1. Loại văn: để chống lại giai đoạn trước chuyên về học thuật, dịch thuật, văn đoàn chú trọng đến sáng tác, tự lực ḿnh sáng tạo không đi phiên dịch hay mô phỏng của ngoại quốc. 2. H́nh thức: chủ trương viết giản dị, trong sáng, dễ hiểu, dùng ít chữ Nho để thay đổi lối hành văn c̣n nặng về biền ngẫu dài lê thê của lớp nhà văn, nhà báo đi trước. 3. Nội dung: một số tư tưởng ṇng cốt mà nhà văn, nếu không chuyên chở được trong tác phẩm của ḿnh, cũng không được đi ngược lại gồm có: - Chống lại Nho giáo v́ đă lỗi thời - Diễn đạt tư tưởng xă hội và chủ nghĩa b́nh dân để chống lại khuynh hướng quan liêu, phong kiến. - Đề cao tự do cá nhân, chống lại luân lư gia đ́nh độc đoán. - Khuyến khích thanh niên yêu đời, vui sống, trẻ trung, mới mẻ, có ư chí phấn đấu để xóa tan già nua, thảm sầu, chán nản, than mây khóc gió của giai đoạn Giọt Mưa Thu, Tuyết Hồng Lệ Sử. - Diễn tả những vẻ đẹp của đất nước để gợi ḷng yêu nước, không vọng ngoại. - Ứng dụng phương pháp khoa học vào văn chương để đạt được sự rơ ràng, mạch lạc. TUẦN BÁO PHONG HÓA Phong Hóa từ số 1 đến 13 do một số giáo sư trường Thăng Long chủ trương, Nguyễn Xuân Mai đứng tên giấy phép, Phạm Hữu Ninh [12] làm quản lư, Trần Khánh Giư (Khái Hưng), giáo sư Thăng Long là chủ bút. Với tôn chỉ dung ḥa “xét trong hai nền văn hóa cái ǵ tốt đẹp th́ thâu góp làm văn hóa của nước nhà” chỉ được dư luận chú ư lúc đầu, sau v́ không đem lại điều ǵ mới mẻ nên đi xuống. Nguyễn Tường Tam thấy cơ hội tốt nên điều đ́nh mua với giá rẻ (mua tên và giấp phép ra báo Phong Hóa), đứng ra làm lại tờ báo. Ngày 22 tháng 09, 1932, Phong Hóa số 14 đổi mới ra mắt độc giả với Nhất Linh, Khái Hưng, Tứ Ly, Tú Mỡ, Thế Lữ, Nhị Linh, Đông Sơn. Chỉ
trong vài tháng số in tăng từ 3,000 lên 10,000. Sau
số Xuân 1933, thấy được độc
giả hoan nghênh nồng nhiệt, Nhất Linh cùng các
cộng tác viên thành lập nhóm Tự Lực Văn
Đoàn. Phong Hóa số tháng 3, 1933 văn đoàn
ra mắt với bản tuyên ngôn ngắn và giới
thiệu dấu hiệu của đoàn (logo) là h́nh con
ó bằng mấy nét vẽ kỷ hà. Tờ
Phong Hóa ngay từ khi đổi mới đă như
một trái bom nổ ra trong làng báo, mang lại sự
trẻ trung, yêu đời [13] bằng tiếng cười
cho độc giả xă hội Việt Nam qua lối văn
trào phúng, hí họa các nhân vật, tranh hài hước
Lư Toét, Xă Xệ, Bang Bạnh…Phong Hóa đă khéo
học hỏi từ các báo Pháp cùng thời như
tờ Rire, Canard Enchainé, Gringoire, Marianne trở thành
tờ báo trào phúng đầu tiên trong lịch sử
báo chí nước ta. Cái cười chinh phục
được độc giả và nhờ đó
thực hiện được, dù dưới khía
cạnh tiêu cực, việc đả phá những
tục lệ cổ hủ, các nhân vật thời danh
bằng cách khoác cho họ một biệt danh châm
biếm, bằng nét vẽ hài hước. Phong Hóa sau
khi đă chế diễu hầu hết các người
có tiếng tăm, năm 1935, trong loạt bài hoạt
kê Đi Xem Mũ Cánh Chuồn đả kích gay
gắt bọn phong kiến quan liêu, nhất là đám
quan lại Nam Triều chạy theo Pháp, đụng
chạm tới Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu nên
bị đóng cửa 3 tháng kể từ ngày 24 tháng
05, 1935 (tháng 6,7,8). Sau khi ra lại được hơn
một năm th́ bị đóng cửa vĩnh viễn
sau số 190 ngày 05 tháng 06, 1936. TUẦN
BÁO NGÀY NAY Trước
khi Phong Hóa bị đóng cửa, tờ Ngày Nay
đă có mặt. Vào thời điểm Phong Hóa
hoạt động được hơn 2 năm,
thấy đă gây được ảnh hưởng
trong quần chúng, nhóm Tự Lực Văn Đoàn
quyết định ra thêm một tờ báo nữa
do Nguyễn Tường Cẩm, anh của Nhất Linh
đứng tên giấy phép. Ngày Nay ra đời ngày
31 tháng 01, 1935 vẫn theo đuổi tôn chỉ nh́n
đời bằng con mắt vui tươi và phấn
đấu nhưng thay đổi phương pháp [14].
Ngày Nay loại bỏ mục trào phúng và chuyên về
phóng sự điều tra [15] với nhiều h́nh
ảnh có tính cách mỹ thuật giống như các
tạp chí ngoại quốc Paris Match, Life… Đây là
lối làm báo mới lạ với độc giả
thời đó nên được đón nhận
nồng nhiệt không kém ǵ tờ Phong Hóa. Tuy
nhiên, v́ nhân lực giới hạn bị chia sẻ,
thêm nữa ấn loát tốn kém nên sau khi ra được
13 số phải tự tạm đ́nh bản để
dồn nỗ lực vào tờ Phong Hóa. Phong
Hóa
bị đ́nh bản giữa năm 1936, tờ Ngày Nay
ra lại với phần trào phúng bị loại
bỏ để tránh bị rút giấy phép, chỉ c̣n
2 phần tiểu thuyết và trông t́m. Nhưng đến
cuối năm 1936 v́ thời cuộc chính trị sôi
nổi [16], báo cho sống lại phần trào phúng, nhưng
giảm bớt mức độ so với Phong Hóa
lúc trước, gọi là “Cười Nửa
Miệng”. Tờ báo trong những năm từ 1937
đến 1939 là diễn đàn thời sự của
cây viết sắc bén Hoàng Đạo đ̣i hỏi
chính quyền bảo hộ Pháp giải quyết các
vấn đề tự do nghiệp đoàn, báo chí,
đời sống dân quê, công lư…[17]. Trong thời
gian này Tự Lực Văn Đoàn cổ động
cho sáng kiến Nhà Ánh Sáng của họ (với
sự tham gia của kiến trúc sư Vơ Đức Diên).
Đó là một tổ chức xă hội nhằm
giải quyết vấn đề nhà ổ chuột
của người nghèo ở thành thị. Tờ
Ngày Nay bị chính quyền Pháp cảnh cáo v́ bức
tranh hí họa của Nguyễn Gia Trí trên b́a số
144 ra ngày 07 tháng 01, 1939. Đến số 206 ra ngày 06
tháng 04, 1940, báo bị đ́nh bản 1 tháng v́ bức
biếm họa cũng của Nguyễn Gia Trí. Ba tháng
sau, Pháp rút giấp phép, Ngày Nay đ́nh bản vĩnh
viễn sau số 224 ra ngày 07 tháng 09, 1940 (trong hồ sơ
mật vụ Pháp ở Aix en Provence không thấy nêu rơ
lư do). NHÀ
XUẤT BẢN ĐỜI NAY Lúc
đầu một số tác phẩm của Tự
Lực Văn Đoàn như Hồn Bướm Mơ
Tiên (1933), Nửa Chừng Xuân (1934) của Khái Hưng,
Vàng và Máu (1934) của Thế Lữ được
xuất bản dưới tên An Nam Xuất Bản
Cục (Société Anamite d’Edition). Từ 1934 Nhất Linh
đổi tên nhà xuất bản của Tự Lực
Văn Đoàn là Đời Nay. Sách bán rất
chạy (trung b́nh mỗi cuốn ấn hành 5,000
bản), ngoài tập thơ của Thế Lữ và Tú
Mỡ, phần lớn là tiểu thuyết. Lúc đầu
chỉ có các tác phẩm trong nhóm, sau xuất bản
cả những sách được giải thưởng
Tự Lực Văn Đoàn và sách giá trị của
các nhà văn bên ngoài như tiểu thuyết của
Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, Vũ Trọng
Phụng, thơ của Tế Hanh, Anh Thơ, Vũ Hoàng
Chương... Để văn phẩm được
phổ cập rộng răi, lúc sau nhà xuất bản
Đời Nay cho ra loại Lá Mạ và Nắng Mới
phẩm chất kém hơn nhưng phí tổn thấp,
bán với giá rẻ nên mỗi lần sách ra đều
bán hết ngay. Ấn
phẩm của nhà xuất bản Đời Nay tŕnh bày
sáng sủa, mỹ thuật từ trong ruột ra ngoài
b́a, khác hẳn với những sách của các nhà
xuất bản thương mại trong thời kỳ
trước vừa luộm thuộm, vừa cổ
lỗ xấu xí. Đời Nay là nhà xuất bản
duy nhất chia tiền lời bán sách cho tác giả,
đă mở một kỷ nguyên mới và là nhà
xuất bản thuần túy văn học đầu tiên
ở nước ta. Đến năm 1940, tờ Ngày
Nay đóng cửa nhưng nhà xuất bản Đời
Nay vẫn tiếp tục hoạt động do
Thạch Lam phụ trách, phổ biến các sách
của văn đoàn. Đến tháng 07, 1942 Thạch
Lam từ trần, Nguyễn Tường Bách, em út trong
gia đ́nh Nguyễn Tường, tiếp tục duy tŕ
nhà xuất bản. Từ 1940 nhà Đời Nay
xuất bản thơ, tiểu thuyết nhiều hơn
trước và thêm loại Sách Hồng cho thiếu
nhi. Nhờ vậy có tiền lời chia cho thành viên,
tuy thất thường nhưng cũng giúp gia đ́nh
họ phần nào trong lúc khó khăn báo bị đóng
cửa. Tháng 04, 1945 tập thơ Hoa Niên (tức
Nghẹn Ngào) của Tế Hanh là ấn phẩm
cuối cùng của nhà xuất bản Đời Nay.
NHÀ
IN NGÀY NAY Hai
tờ Phong Hóa, Ngày Nay và các sách của nhà
xuất bản Đời Nay đều thuê in ở
ngoài, do đó Nhất Linh nghĩ đến chuyện
mở nhà in riêng tiết kiệm phí tổn. Để
có tiền Tự Lực Văn Đoàn gọi cổ
phần, mỗi cổ phần $500 [18]. Nhà in Ngày Nay
bắt đầu hoạt động từ tháng 5,
1940, có máy in lớn, chữ mới, thợ làm
suốt ngày đêm. Báo Ngày Nay bắt đầu in
ở nhà in nhà từ số 209 ra ngày 25 tháng 05, 1940
[19]. Hoàng Đạo phụ trách nhà in, ngoài báo nhà c̣n
in sách của nhà xuất bản Đời Nay và in thuê
lấy lời. Tính đến số báo cuối cùng
trước khi bị đóng cửa, tờ Ngày Nay in
được ở nhà in nhà tổng cộng 16
số báo. Sau khi bán nhà in năm 1946 mỗi thành viên có
cổ phần được chia $6,000. CÁC
TÁC PHẨM CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN Các
tác phẩm của thành viên Tự Lực Văn Đoàn
được liệt kê dưới đây là trong
khoảng thời gian từ 1933 đến 1940 (tuy có vài
nhan sách xuất bản sau 1940 nhưng các tác phẩm này
đă đến với độc giả trên Phong
Hóa, Ngày Nay). Những sách xuất bản về sau
không góp phần vào ảnh hưởng của Tự
Lực Văn Đoàn. Nhất
Linh: Truyện
dài: Nắng Thu (1934), Gánh Hàng Hoa (viết
chung với Khái Hưng-1934), Đoạn Tuyệt
(1936), Lạnh Lùng (1937), Đôi Bạn
(1938), Bướm Trắng (1939). Truyện
ngắn: Đời Mưa Gió (viết chung
với Khái Hưng - 1934), Tối Tăm (1936), Anh
Phải Sống (viết chung với Khái Hưng-1937),
Hai Buổi Chiều Vàng (1937). Khái
Hưng: Truyện
dài: Hồn Bướm Mơ Tiên (1933),
Nửa Chừng Xuân (1934), Gánh Hàng Hoa
(viết chung với Nhất Linh-1934), Trống Mái
(1936), Gia Đ́nh (1938), Thừa Tự
(1940), Tiêu Sơn Tráng Sĩ (1940), Thoát Ly
(1940), Hạnh (1940), Những Ngày Vui (1941),
Đẹp (1941) Thanh Đức (hay Tội
Lỗi, Băn Khoăn -1942), Cái Ve (1944). Truyện
ngắn: Đời Mưa Gió (viết chung
với Nhất Linh - 1934), Giọc Đường Gió
Bụi (1936), Anh Phải Sống (viết
chung với Nhất Linh-1937), Tiếng Suối Reo
(1937), Đợi Chờ (1939), Cái Ấm Đất
(1940), Đội Mũ Lệch (1941). Kịch:
Tục Lụy (1937), Cóc Tía (1940), Đồng
Bệnh (1942). Loại
Sách Hồng: Ông Đồ Bể, Quyển Sách
Ước, Cây Tre Trăm Đốt, Bông Cúc Huyền. Thế
Lữ: Trinh
thám: Vàng và Máu (1934), Bên Đường Thiên
Lôi (1936), Ba Hồi Kinh Dị (1936), Mai Hương
và Lê Phong (1937), Lê Phong Phóng Viên (1937), Đ̣n
Hẹn (1939), Gói Thuốc Lá (1940), Gió Trăng
Ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941), Tiểu
Thuyết: Thoa (1942). Thơ:
Mấy Vần Thơ (1935), Mấy Vần Thơ,
tập mới (1941). Thạch
Lam: Truyện
dài: Ngày Mới (1939). Truyện
ngắn: Gió Đầu Mùa (1937), Nắng Trong
Vườn (1938), Sợi Tóc (1942). Tùy
Bút: Hà Nội 36 Phố Phường (1942). Tiểu
luận văn học: Theo Gịng (1941). Loại
Sách Hồng (kư Thiện Sĩ): Quyển Sách,
Hạt Ngọc, Hai Chị Em, Lên Chùa. Hoàng Đạo: Tiểu Luận: Bùn Lầy Nước Đọng (1936), Mười Điều Tâm Niệm (1939). Phóng Sự: Trước Vành Móng Ngựa (1938). Truyện Dài: Con Đường Sáng (1940) Truyện Ngắn: Tiếng Đàn (1941). Loại Sách Hồng: Con Cá Thần, Lan và Huệ, Con Chim Di Sừng, Sơn Tinh, Lên Cung Trăng. Tú Mỡ: Thơ: Gịng Nước Ngược I (1934), II (1941), III (1946). Xuân Diệu: Thơ Thơ (1938), Phấn Thông Vàng (1939), Trường Ca (1944), Gửi Hương Cho Gió (1944). |