
Các
nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn
Tuy
chỉ hoạt động trong thời gian 8 năm
ngắn ngủi nhưng thành tựu của Tự
Lực Văn Đoàn thật lớn lao. Với 2
tờ tuần báo và một nhà xuất bản, nhóm
đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến xă
hội Việt Nam về cả 2 phương diện tư
tưởng và văn học.
-
Ảnh hưởng về Tư Tưởng:
Chủ
trương bỏ cũ theo mới qua phương
tiện tiểu thuyết và trào phúng đă như
một cơn lốc thổi vào xă hội Việt Nam
tŕ trệ trước năm 1932. Sau 3 năm Phong Hóa
ra đời, các đối tượng mà văn
đoàn nhắm vào đều không thể đứng
vững [21]. Những sáng tác văn chương, thơ,
tiểu thuyết đă ngấm sâu vào tâm hồn người
đọc làm thay đổi lối suy nghĩ của
cả một thế hệ thời đó. H́nh ảnh
hoạt kê Lư Toét, Xă Xệ, Bang Bạnh phổ
cập khắp nước đưa đến sự
so sánh giữa quê mùa hủ lậu với văn minh tân
tiến, thúc đẩy trút bỏ tập tục cũ
để mạnh dạn theo con đường âu hóa,
đổi mới và cấp tiến [22].
-
Ảnh hưởng trong lănh vực Văn Học:
Địa
hạt báo chí, xuất bản:
văn đoàn đă đem lại tiến bộ cho 2
địa hạt này, thay đổi bộ mặt sách
báo từ h́nh thức đến nội dung.
Về
h́nh thức, với cách tŕnh bày sáng sủa nghệ
thuật cộng thêm những nét vẽ tài hoa của
các họa sĩ xuất thân từ trường Cao
Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương như
Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường, Trần B́nh
Lộc, Tô Ngọc Vân, bắt mọi người
phải để ư đến cái đẹp.
Những nét tranh thiên nhiên lăng mạn, những bóng dáng
thiếu nữ thướt tha, mơ mộng trên trang
thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, tiểu
thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh khiến độc
giả trở nên nhạy cảm với cái đẹp.
Mỹ thuật thay đổi cách sống, con người
tiếp xúc với cái đẹp th́ cuộc đời
thêm thanh lịch [22].
Về
nội dung, hai tờ báo của nhóm đă chuyên
chở những bài viết đi vào quần chúng, săn
sóc dư luận, đặt ra và tranh đấu
giải quyết các vấn đề liên quan đến
số đông, bênh vực người cô thế, bài
bác bất công, tố cáo những thối nát của
chính quyền, lầm than của dân chúng, cổ vơ cho
việc cải cách xă hội, cổ động cho
phong trào truyền bá chữ Quốc Ngữ…là
những điều mà báo chí nước ta trước
đó chưa làm.

Nhà
văn Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam
Địa
hạt văn chương:
tiểu thuyết thuần túy Việt Nam chỉ
bắt đầu có với các tác phẩm của
Tự Lực Văn Đoàn. Từ 1932 trở về
trước đa số là các truyện dịch
của ngoại quốc, phần c̣n lại là mô
phỏng của Tây hoặc của Tầu, nếu không
mô phỏng cốt truyện th́ cũng mô phỏng nhân
vật. Ngược lại, các nhân vật và khung
cảnh trong truyện ngắn, truyện dài của
Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam là người và
cảnh Việt Nam, rất gần gũi với
cuộc sống. Cốt truyện là những chuyện
có thể xảy ra chung quanh mọi người ngay ngoài
đường phố Hà Nội, trên đê Yên
Phụ, hay trong đồn điền trà Phú Thọ,
ngay cả tiểu thuyết lịch sử Tiêu Sơn
Tráng Sĩ của Khái Hưng cũng rất
Việt Nam. Những cái “thật” đó trong tác
phẩm Tự Lực Văn Đoàn hoàn toàn không có
trong tiểu thuyết ở thời kỳ trước.
Tự
Lực Văn Đoàn xuất phát, lănh đạo và
đưa đến toàn thắng phong trào thơ
mới mà người dẫn đầu là Thế
Lữ với góp sức tích cực của những nhà
thơ tài hoa khác…Đồng thời văn đoàn
trở thành trung tâm trào lưu văn nghệ lăng
mạn bằng các tiểu thuyết của Khái Hưng,
Nhất Linh, Thạch Lam, thơ của Xuân Diệu, Huy
Cận, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Tế Hanh.
Ngoài
ra, Tự Lực Văn Đoàn c̣n kích thích sáng tác và
khuyến khích các tài năng mới hàng năm
bằng Giải Thưởng Văn Chương Tự
Lực Văn Đoàn. Nhờ hoạt động văn
học có giá trị này mà làng văn có thêm những
cây viết mới, một số nổi tiếng sau
khi được giải của văn đoàn [23].
Tự
Lực Văn Đoàn chỉ có 7 người mà
tập hợp được một lực lượng
cộng tác đông đảo nhà văn nhà thơ, gây
được phong trào văn học rộng lớn
trên toàn quốc. Phong Hóa, Ngày Nay là trung tâm quan
trọng trong công cuộc đổi mới văn
học, của phong trào thơ mới, trào lưu văn
chương lăng mạn, là nơi nâng đỡ
giới thiệu nhiều tài năng mới như Xuân
Diệu, Huy Cận, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, Đỗ
Đức Thu, Đoàn Phú Tứ, Mạnh Phú Tứ, Bùi
Hiển, Vi Huyền Đắc, Anh Thơ, Nguyễn Bính,
Tế Hanh…
KẾT
LUẬN
Từ
thời thượng cổ nước ta đă có văn
tự riêng trước khi bị người Tàu xâm
chiếm. Chữ Lạc Việt xuất hiện vào
đầu thời đại “đồ đá
mới” và h́nh thành vào thời kỳ đỉnh
cao của “văn hóa xẻng đá lớn”
(TK40 TTL - TK20 TTL). Thứ chữ tối cổ đó c̣n
đang phát triển trong thời kỳ “Tự”
th́ phải bỏ dở v́ ách thống trị của
Tàu hơn 1000 năm. Người Tàu đă dùng
thứ chữ khắc trên Giáp Cốt Văn và Chung
Đỉnh Văn của ta làm cơ sở phát
triển và kiện toàn để trở thành chữ
Hán của họ sau này [24].
Từ
khi bị Tàu đô hộ, dù bị bắt buộc
phải dùng chữ Hán, ông cha chúng ta luôn luôn t́m
kiếm một thứ chữ riêng cho dân tộc
Việt. Chữ Nôm, được biến cải
từ chữ Hán, dù chưa được hoàn
chỉnh và nhiều khiếm khuyết [25], là một
cố gắng trong mục đích này. Vua Quang Trung khi lên
ngôi hoàng đế, người anh hùng áo vải
đất Tây Sơn muốn người Việt
phải dùng chữ Việt nên băi bỏ Hán tự,
bắt dùng chữ Nôm trong việc cai trị và thi
cử.
Chữ
Quốc Ngữ do các mẫu tự La Tinh ghép thành
xuất phát từ nhu cầu truyền đạo Thiên
Chúa của các giáo sĩ người Âu Châu sang
Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 16. Các
giáo sĩ có công trong việc sáng chế ra chữ
Quốc Ngữ là các cố Gaspard de Amaral, Antanio de
Barbosa (người Bồ Đào Nha), và Alexandre de Rhodes
(người Pháp). Do cơ duyên lịch sử, tâm
huyết tiền nhân không c̣n là mong ước,
chữ Quốc Ngữ dùng diễn tả tiếng nói
của chúng ta trở thành quốc tự Việt Nam
[26].

Nhà
văn Khái Hưng
Đi
vào văn chương với tất cả nhiệt t́nh
và lư tưởng, góp phần quan trọng vào việc
đổi mới văn chương, xây dựng
một nền văn học hiện đại, Tự
Lực Văn Đoàn thực sự đă đóng góp
lớn lao cho nền văn học Việt Nam. Trải
qua gần một thế kỷ, với biến
chuyển không ngừng của xă hội, nhiều tác
phẩm của văn đoàn bị lỗi thời
chỉ c̣n giá trị lịch sử của một giai
đoạn, nhưng có những sáng tác với
nghệ thuật cao đă vượt qua được
sự thử thách nghiệt ngă của thời gian. Đoạn
Tuyệt, Đôi Bạn, Bướm Trắng của
Nhất Linh, Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn
Tráng Sĩ của Khái Hưng, Gió Đầu Mùa,
Nắng Trong Vườn, Sợi Tóc của
Thạch Lam trở thành những tác phẩm cổ
điển bất tử vượt thời gian và không
gian trong văn học sử.
Giai
đoạn 1932-1940 đánh dấu một mốc quan
trọng trong lịch sử chữ Quốc Ngữ.
Bằng những sáng tác của các thành viên qua 2
tờ Phong Hóa và Ngày Nay Tự Lực Văn
Đoàn đă kiện toàn gần như hoàn chỉnh
việc sử dụng chữ văn tiếng Việt.
Ngôn ngữ văn chương trở nên giản
dị, trong sáng, giàu khả năng diễn đạt,
và gần gũi với tâm hồn dân tộc. Cách hành
văn mới mẻ, nhẹ nhàng, lưu loát trong các tác
phẩm của Tự Lực Văn Đoàn đă là
mẫu mực cho sinh viên học sinh noi theo. Chữ văn
Quốc Ngữ từ đây trở nên trong sáng,
gọn gàng, đơn giản.
Hành
tŕnh tiến triển của văn Quốc Ngữ
từ lúc sơ khai đến hiện tại là
nhờ sự đóng góp của nhiều người.
Thuở ban đầu gồm các giáo sĩ truyền
đạo Thiên Chúa, kế đến Trương Vĩnh
Kư, Huỳnh Tịnh Của, nhóm Đông Dương
Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí và các nhà văn, nhà báo
thời cận đại. Tuy nhiên, các văn gia
Tự Lực Văn Đoàn mới đích thực là
những người đă tập đại thành
được chữ văn Quốc Ngữ vậy.
TRẦN
BÍCH SAN
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
-
Đặng Trần Huân, Chữ Nghĩa Bề Bề,
nxb Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2000.
-
Hà Văn Đức, Văn Học Việt Nam
(1900-1945), Thạch Lam (1910-1942), nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 1999.
-
Nhật Thịnh, Chân Dung Nhất Linh, nxb Sống
Mới, Sài G̣n, Đại Nam in lại ở Hoa
Kỳ.
-
Nguyễn Q. Thắng, Từ Điển Tác Gia Việt
Nam, nxb Văn Hóa, Hà Nội, 1999.
-
Nguyễn Thị Thế, Hồi Kư Về Gia Đ́nh
Nguyễn Tường, nxb Văn Hóa Ngày Nay, California,
Hoa Kỳ, 1996.
-
Nguyễn Tường Bách, Việt Nam Những Ngày
Lịch Sử, nxb Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa
Việt Nam, Montréal, Canada, 1981.
-
Phạm Thảo Nguyên, Câu chuyện Tự Lực Văn
Đoàn và những điều chưa nói, tạp chí
Cỏ Thơm số 64, Mùa Thu 2013, Virginia, 2013.
-
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên, Quyển 3, nxb Quốc
Học Tùng Thư, Sài G̣n, 1965.
-
Phan Cự Đệ, Văn Học Việt Nam
(1900-1945), Tự Lực Văn Đoàn, nxb Giáo Dục,
Hà Nội, 1999.
-
Trần Bích San, Văn Khảo, nxb Cỏ Thơm,
Virginia, 2000.
-
Trần Văn Giáp, Lược Truyện các Tác Gia
Việt Nam, nxb Văn Học, Hà Nội, 2000.
-
Tú Mỡ, Tiếng Cười, nxb Hội Nhà Văn, Hà
Nội, 1993.
Mời xem: Tự Lực
Văn Đoàn kỳ 01  |