Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Chương
3-1 Lê Quế Lâm |
Hồ
Chí Minh du nhập
chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam Trong
thời gian ở Paris, do sự giới thiệu
của Nguyễn Thế Truyền -một kỹ sư hóa
học nổi tiếng thiên tả, Nguyễn Ái Quốc
(Hồ Chí Minh) được gia nhập Đảng Xă
hội Pháp (Quốc tế II) và nhờ đó ông quen
biết nhiều nhân vật cánh tả Pháp như Léon
Blum, Marius Moutet, Marcel Cachin... Khi Lenin thành lập Quốc
tế III, các đảng viên Đảng Xă hội Pháp
tranh luận sôi nổi để quyết định
đảng sẽ tiếp tục ở lại với
Quốc tế II hoặc theo Quốc tế III. Lúc tham
dự Đại hội Tours năm 1920, Nguyễn Ái
Quốc vẫn chưa hiểu rơ thế nào là Quốc
tế hai và Quốc tế ba. Trong các buổi thảo
luận, ông chăm chú theo dơi các diễn giả nhưng
không thấy ai đề cập đến vấn đề
thuộc địa. Do đó ông đă đặt câu
hỏi: "Quốc tế nào th́ đứng
về phía các dân tộc thuộc địa?" Ông
được trả lời là Quốc tế thứ
ba. (1) Đó
là động cơ thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc
đứng hẳn về Quốc tế Cộng sản
của Lenin chỉ v́ tổ chức này chủ trương
ủng hộ việc giải phóng thuộc địa.
Ông cùng một số đảng viên Xă hội cánh
tả tham dự Đại hội Tours, bỏ phiếu
tán thành Đệ tam Quốc tế đưa đến
việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Trong hồi kư, Hồ Chí Minh thú nhận rằng chính
chủ nghĩa yêu nước đă lôi kéo ông vào
chủ nghĩa Cộng sản. Nhờ
hoạt động với phe tả, nên Nguyễn Ái
Quốc có dịp nghiên cứu bản Luận cương
của Lenin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa. Đọc xong tác phẩm này ông
mừng rỡ thét lên: "Đây là cái cần
thiết cho ta! Đây là con đường của
ta". (2) Từ đây ông hoàn toàn
tin theo Lenin, và hiến hẳn đời ông cho Quốc
tế Cộng sản. Ông thành lập "Hội Liên
hiệp thuộc địa", liên kết với
những người ái quốc thuộc các nước
thuộc địa của Pháp đang sống lưu
vong ở Paris và xuất bản tờ Le Paria (Người
cùng khổ). Bản Luận cương của Lenin
được Nguyễn Ái Quốc coi như là
quyển "cẩm nang thần kỳ" giúp ông
thực hiện hoài bảo cứu nước. Và Lenin cũng
đă chiêu dụ được một người
học tṛ nhiệt t́nh nhất để bành trướng
chủ nghĩa Cộng sản thông qua con đường
giải phóng dân tộc. Với
niềm tin vào chủ nghĩa Mác Lê một cách
cuồng tín, Nguyễn Ái Quốc đă cố áp đặt
ḷng yêu nước của đồng bào gắn
liền với chủ nghĩa Cộng sản của ông.
Mấy năm sau với tác phẩm nổi tiếng
"Bản cáo trạng chế độ thực dân
Pháp" (Le procès de la colonisation Francaise) được
Nguyễn Thế Truyền viết lời tựa, không
những Hồ Chí Minh đă làm điên đầu
bọn thực dân Pháp ở bộ Thuộc địa
mà c̣n chứng minh hùng hồn cho luận thuyết
của Lenin về vấn đề dân tộc và
giải phóng thuộc địa. Từ năm
1922, với tư cách đại biểu các nước
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đến
Mạc tư Khoa và được tham dự Đại
hội Nông dân Quốc tế và các Đại hội
lần III và V của Quốc tế Cộng sản. Ông
được bồi dưỡng nghiệp vụ
tại trường Đại học Công nhân Đông
phương. Từ đây Nguyễn Ái Quốc đă t́m
được một chỗ dựa quốc tế
vững chắc v́ Quốc tế Cộng sản coi phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa là một bộ phận khăng khít
của cách mạng vô sản thế giới mà giai
cấp vô sản quốc tế có nhiệm vụ
phải giúp đỡ và ủng hộ để đánh
đổ chủ nghĩa đế quốc. Ngoài
chỗ dựa là Liên Xô và Quốc tế III, Nguyễn
Ái Quốc c̣n t́m được một học
thuyết quốc tế khá hoàn chỉnh, trong đó
chứa đựng những lư luận sắc bén
được tŕnh bày mạch lạc và có sức
hấp dẫn mạnh mẽ. Theo nhận định
của Giáo sư Raymond Around (1905-1983) -nhà nghiên cứu
chính trị nổi tiếng có khuynh hướngxă
hội của Pháp th́ "trong giai đoạn
bắt đầu phát triển, học thuyết Mác Lê
được đưa ra như liều thuốc
phiện của người trí thức". (3) Nghiên
cứu học thuyết Mác Lê được coi như
là thời trang của giới trí thức ở Pháp lúc
bấy giờ. Nó lôi kéo cả những sinh viên nước
ngoài đến Pháp học như Chu Ân Lai, Đặng
Tiểu B́nh, Tito, Trần Văn Giàu, Tạ Thu Thâu... Riêng
về thanh niên Việt Nam du học ở Pháp vào
thời điểm này, đa số đều say mê ch́m
đắm trong chủ thuyết mê hoặc này. Họ
đă gia nhập Quốc tế III của Lenin và khi
Mặt trận cánh tả lên nắm chánh quyền
ở Pháp, họ liền về nước hoạt
động. Phần lớn về Nam Kỳ v́ nơi
đây là đất thuộc địa nên họ
dễ dàng tuyên truyền sách động. Họ tin tưởng
học thuyết Mác Lê có thể giúp họ t́m
được con đường giải phóng dân
tộc khỏi ách thực dân Pháp. Chỉ trừ
một số người sáng suốt, sớm nhận
thức rằng vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Quốc tế 3 chỉ là chiêu bài
để Liên Xô thực hiện một h́nh thức
đế quốc khác mà thôi. Tiêu biểu cho nhóm này là
Tạ Thu Thâu, ông đi theo con đường Đệ
tứ quốc tế của Trotsky -một lư thuyết
gia Mác xít kỳ cựu cùng thời với Lenin. Sau
khi có được chỗ dựa quốc tế
vững chắc, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
việc đào tạo cán bộ. Năm 1925 ông
được Quốc tế 3 gởi đi Trung
Quốc để tạo dựng và phát triển các
Đảng Cộng sản ở Đông Nam Á. Dưới
cái tên Lư Thụy, ông làm thông ngôn và thư kư cho
Borodine trưởng phái bộ Nga ở Quảng Châu
-thủ đô chính trị và hành chánh của Trung Hoa
Quốc dân Đảng lúc bấy giờ. Tại đây
có Học viện Quân Chính Trung ương Hoàng Phố,
cơ sở này được thành lập năm 1924 do
sáng kiến của Bác sĩ Tôn Dật Tiên để
đào tạo cán bộ, sĩ quan Cách mạng Trung Hoa.
Nơi đây qui tụ những thanh niên tân học giàu
ḷng nhiệt huyết, thuộccác gia đ́nh khoa
bảng, quan lại hoặc địa chủ đă hưởng
ứng phong trào Đông du của Phan Bội Châu, song
họ bị mất điểm tựa khi cụ Phan
bị thực dân Pháp bắt (1925). Một số khác là
những sinh viên học sinh bị Pháp đàn áp sau
vụ bải khóa năm 1925 để phản đối
Pháp bắt cụ Phan, phải trốn sang Trung Quốc,
trong đó có Phạm Văn Đồng. Địa
danh Quảng Châu gắn liền với tên tuổi anh hùng
Phạm Hồng Thái (1896-1924) và “tiếng bom Sa
Diện”. Ông là một nhà hoạt động trong
phong trào Đông Du và tham gia tổ chức Việt Nam
Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu. Nhưng
v́ bất
đồng với tư tưởng bảo thủ
của các nhân vật lớn tuổi trong Việt
Nam Quang Phục Hội, Phạm
Hồng Thái cùng các
bạn trong tổ chức như Lê Hồng Phong, Hồ
Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Sơn…
thành lập Tâm Tâm
Xă. Năm1924 Toàn quyền Đông Dương là Martal Henri
Merlin đến Đông Kinh để điều đ́nh
với Nhật việc trục xuất các nhà Cách
mạng VN. Trên đường về Đông Dương,
y ghé tô giới của Pháp ở Sa Diện Quảng Châu.
Trong bữa tiệc chiêu đăi Merlin đêm 18/6/1924,
Phạm Hồng Thái giả danh kư giả quăng
một quả lựu đạn vào giữa bàn
tiệc. Vụ mưu sát không thành, Merlin chỉ bị
thương. Bị tuy nă, anh hùng họ Phạm đă
gieo ḿnh xuống ḍng Châu Giang tự tử. Ông
được người dân Trung Hoa an táng tại nghĩa
trang liệt sĩ Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc cải tổ Tâm Tâm Xă
thành “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
hội” và truyền bá học thuyết Mác Lê. Trong
quyển "Từ thực dân đến cộng
sản", tác giả Hoàng văn Chí tiết lộ
Nguyễn Ái Quốc đă lập mưu lừa Phan
Bội Châu vào tô giới Pháp ở Thượng
Hải để bán cho Pháp lấy 10 vạn đồng.
Sau vụ này, một học tṛ của Nguyễn Ái
Quốc cho biết được ông thầy giải thích
như sau: "Cụ Phan đă già lẫn, không c̣n ích
lợi cho cách mạng, việc Pháp bắt cụ và
xử án cụ tất nhiên sẽ gây phong trào phản
đối trong quốc nội và rất có lợi cho
tinh thần cách mạng, sau hết tiền nhận
được của Pháp sẽ dùng để
đưa thêm thanh niên trong nước xuất ngoại".
Nguyễn Ái Quốc âm mưu việc này với
Nguyễn Công Viễn bí danh Lâm Đức Thụ là
đại diện cụ Phan ở Thượng Hải,
về sau tên này theo cộng sản. Hai người
đă chia số tiền thưởng của Pháp, riêng
Hồ Chí Minh đă dùng tất cả để chi phí
cho Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
hội. Tác
giả Hoàng Văn Chí c̣n đề cập đến
một thủ đoạn thâm độc khác của
cộng sản như sau: "Mỗi thanh niên Quang
phục hội đưa sang Tàu phải nộp cho Lâm
Đức Thụ hai bức h́nh để lập
hồ sơ xin vào trường Hoàng Phố. Đến
ngày tốt nghiệp, những người nghe theo
lời tuyên truyền cộng sản và gia nhập Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội th́ được
an toàn đưa về nước để hoạt
động bí mật. C̣n những người khăng
khăng giữ lập trường quốc gia th́ khi
rời khỏi biên giới là bị mật thám Pháp
đón bắt theo mật hiệu của cộng sản
trao cho Lănh sự Pháp ở Hồng Kông. Những
thanh niên tốt nghiệp trường Hoàng Phố mà không
chịu theo cộng sản thường không dám về
nước chỉ c̣n cách là gia nhập Quân đội
Trung Hoa Quốc dân Đảng. Dần dà phong trào
Quốc gia mỗi ngày mỗi suy sụp và phong trào
cộng sản mỗi ngày mỗi bành trướng”. (4) Ngoài
việc tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng
đồng chí hội, Nguyễn Ái Quốc c̣n viết
quyển "Đường Kách mạng" là
quyển sách tập trung những bài thuyết giảng
tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán
bộ của Việt Nam Thanh niên đồng chí hội
về chủ nghĩa Cộng sản. Theo ông Hồ, “Thế
giới có hai giai cấp: Tư sản không làm mà hưởng
lợi. C̣n công nhân và nông dân làm khó nhọc mà
chẳng được hưởng”. Giai cấp công
nông đông đảo hơn nên có sức mạnh,
phải làm cách mạng “nếu thua th́ chỉ
mất một cái kiếp khổ, nếu được
th́ được cả thế giới”. Ông đề
cao “Cách mạng Nga đă đuổi được
vua, tư sản, địa chủ rồi, lại ra
sức giúp đỡ cho công, nông dân các nuớc bị
áp bức ở các thuộc địa. Cách mạng Nga
dạy chúng ta rằng muốn cách mạng thành công th́
phải có đảng lấy công, nông làm gốc. Nói tóm
lại là phải theo chủ nghĩa Mă Khắc Tư và
Lenin”. (5) Với
tác phẩm trên, Nguyễn Ái Quốc đă vạch ra hướng
đi cho những thanh niên yêu nước: vừa
giải phóng dân tộc vừa mang đến quyền
lực cho họ. Đó là điểm tuyệt diệu
của thầy tṛ Lenin/Nguyễn Ái Quốc: lấy
quyền lực và hoài bảo cứu nước để
lôi cuốn thanh niên vào quỹ đạo cộng
sản. Khi trở thành người cộng sản,
họ trở nên cuồng tín, coi chủ nghĩa Mác Lê
là chân lư tuyệt đối, ai chống lại lư
thuyết này đều bị kết án là kẻ thù và
phải bị tiêu diệt. Họ chỉ biết tôn sùng
Karl Marx, Lenin, Stalin và phục tùng tuyệt đối
mệnh lệnh của người lănh đạo đảng.
Cựu thủ tướng Trần Trọng Kim đă
từng nhận xét: "Về hành động,
cộng sản chuyên dùng những thủ đoạn
quỷ quyệt nên tuy có thắng lợi mà những người
trí thức ít người theo. Cũng v́ vậy mà
họ bài trừ trí thức và chỉ ưa dùng đàn
bà, trẻ con và những người lao động là
hạng người dễ khuyến dụ, dễ
lừa dối". Cụ kể ra những thủ
đoạn mà cộng sản thường áp dụng là
"nói dối, đánh lừa cướp bóc,
giết hại tàn phá không kiêng nể ǵ cả,
miễn là làm cho người ta mắc lừa hay sợ
mà theo ḿnh là được hoặc để cho
được việc trong một lúc nào đó". (6) Trường
Chinh bí danh của Đặng Xuân Khu (1907-1988) lư
thuyết gia Đảng Cộng sản Việt Nam
từng nhắc nhở cán bộ đảng viên: "bất
cứ việc nào có lợi cho cách mạng đều là
tốt cả". Khi nắm được chính
quyền, những người cộng sản cố bám
quyền lực đến cùng và dùng bạo lực
của nền chuyên chính vô sản triệt hạ
tất cả những người đối lập v́
Lenin đă cảnh cáo họ "kẻ thù giai
cấp sống lại sẽ mạnh gấp trăm
lần". Tất cả đă tạo cho Hồ Chí
Minh một đội ngũ cán bộ nhiệt t́nh v́
quyền lực trước mắt và sẽ trung thành
tuyệt đối với đảng cộng sản
để duy tŕ và bảo vệ quyền lực đến
cùng. Từ năm 1945, Cộng sản Việt Nam đă
triệt hạ hầu hết những người đi
ngược với đường lối của
Quốc tế Cộng sản, từ những thành viên
theo phe Trotsky đến những thành phần có tinh
thần quốc gia chân chính và cả những người
không tham gia các đảng phái chính trị. Từ
giữa thập niên 1920 tại Việt Nam đă
xuất hiện ba đảng cộng sản. Ở Nam
kỳ có “An Nam cộng sản đảng” tổ
chức này chịu ảnh hưởng của Nguyễn
An Ninh. Năm 1922 trước khi rời Pháp về Sàig̣n
tham gia cách mạng, ông tuyên bố “Tôi không phải
là cộng sản, không xuất thân từ giai cấp vô
sản, nhưng tôi tán thành những nguyên lư cộng
sản. Cách mạng sẽ nổ ra ở Đông Dương
trong vài năm tới nếu Pháp không thay đổi
thể chế”. Năm sau Nguyễn An Ninh xuất
hiện đầu tiên tại hội trường
Hội Khuyến học, Đức trí và Thể
dục Nam Kỳ (SAMIPIC) ngày 15/10/1923 với bài diễn
thuyết “Cao vọng thanh niên” kêu gọi
thanh niên, trí thức ư thức thân phận mất nước
và nô lệ của ḿnh, phải dấn thân cứu nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, Trần Văn
Giàu đă thoát ly gia đ́nh đi làm cách mạng chuyên
nghiệp. Tại
Trung Kỳ có tổ chức Tân Việt Cách mệnh
Đảng với tôn chỉ “Đánh đổ đế
quốc, xây dựng một xă hội b́nh đẳng, bác
ái”. Đảng Tân Việt chấm dứt hoạt
động vào năm 1929 khi phân hóa thành hai phái.
Một phái có xu hướng quốc gia thành lập
“Liên đoàn Quốc gia” và một phái ảnh hưởng
tư tưởng cộng sản thành lập “Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn”. Tại
Bắc Kỳ có “Đông Dương Cộng sản
Đảng”, tiền thân của đảng là
“Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
hội” do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở
Quảng Châu năm 1925. Khoảng tháng 5/1929 Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội họp Đại
hội đại biểu toàn quốc lần đầu
tiên và cũng là lần cuối cùng. Trong Đại
hội các đại biểu Bắc Kỳ đề
nghị thành lập đảng cộng sản, nhưng
không được thông qua. Họ bèn rút khỏi
hội nghị, về nước tổ chức Đông
Dương Cộng sản đảng. Trong “Báo cáo
gửi Quốc tế Cộng sản về Phong trào Cách
mạng ở An Nam” ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái
Quốc nhận xét “đó là mối bất ḥa
đầu tiên” trong tổ chức đảng
Cộng sản Đông Dương. (7) Tháng
Giêng 1930, tại Cửu Long/Hương Cảng,
Nguyễn Ái Quốc thi hành chỉ thị của Đông
Phương Bộ là một bộ phận của
Quốc tế Cộng sản, triệu tập các đại
biểu ba nhóm đảng cộng sản ở Đông
Dương. Hội nghị hợp nhất này diễn
ra từ ngày 6/1 đến 8/2/1930 có 7 người tham
dự gồm 2 đại biểu của Đông Dương
Cộng sản đảng (Trịnh Đ́nh Cửu và
Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu
của An Nam Cộng sản đảng (Nguyễn
Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu
của Quốc tế Cộng sản (Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn). Nhóm
cộng sản thứ ba ở Trung Kỳ là Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn không đến kịp để
dự hội nghị. Hội nghị quyết định
thành lập một tổ chức cộng sản duy
nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nửa tháng sau, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng
CSVN. Tại
hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ nhất tại Hồng Kông từ 14 đến
31/10/1930 tên đảng được đổi thành Đảng
Cộng sản Đông Dương theo lệnh
của Quốc tế Cộng sản và Trần Phú quê
quán Đức Thọ, Hà Tĩnh, từng học ở
Đại học Phương Đông Mạc tư Khoa
năm 1927 được bầu làm Tổng bí thư
đầu tiên. Bản
Luận cương chính trị của đảng
dựa theo bản Chính cương và sách lược
vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc thảo ra, nội
dung xác định rơ "Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận khắng khít của Cách mạng vô
sản thế giới. Cách mạng Việt Nam phải
trải qua hai giai đoạn: đánh đổ đế
quốc và phong kiến giành độc lập dân
tộc, sau đó đưa Việt Nam tiến thẳng
lên xă hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa". (8) Đó
là nội dung "hai sách lược" của Cách
mạng vô sản thế giới do Lenin đề ra
từ năm 1905. Sau khi hoàn
thành sứ mạng này, Nguyễn Ái Quốc được
chỉ định làm Vụ trưởng Đông Á
Vụ, giữ việc liên lạc giữa Mạc tư
Khoa và tất cả các tổ chức của Đệ
tam Quốc tế tại Đông Á và Đông Nam châu Á.
Đảng Cộng sản Đông Dương được
công nhận là một chi bộ của Quốc tế
Cộng sản và Nguyễn Ái Quốc được
cử phụ trách Vụ Phương Nam thuộc Đông
phương Cục/Quốc tế Cộng sản. Đảng
CSVN vừa ra đời ở Hương Cảng (Trung
Quốc) ngày 8/2/1930 th́ ba ngày sau Nguyễn Thái Học
(1902-1930) và Nguyễn Khắc Nhu (1882-1930) lănh tụ
Việt Nam Quốc Đảng quyết định
tấn công Pháp ở Yên Bái (11/2/1930). Cuộc khởi
nghĩa bất thành, Nguyễn Khắc Nhu tự sát, 13
anh hùng Yên Bái bị Pháp xử tử ngày 23/3/1930.: Nguyễn
Thái Học, Phó Đức Chính, Bùi Tử Toàn, Bùi Văn
Chuẩn, Nguyễn An, Đào Văn Nhít, Ngô Văn Du,
Nguyễn Văn Tiềm, Nguyễn Như Liên, Nguyễn
Văn Cửu, Lê Văn Tụ, Nguyễn Văn Tính và Hà
Văn Lạo. Đến
tháng 9/1930 tại Trung Kỳ diễn ra phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh. Chính quyền Xô Viết do nông
dân và công nhân lănh đạo ra đời ở các xă
thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhận
thấy t́nh h́nh chuyển biến nghiêm trọng và có
nguy cơ lan rộng, Pháp tập trung lực lượng
để đàn áp tiêu diệt các phong trào cộng
sản này. Đến giữa năm 1931, thực dân
Pháp thực hiện trở lại chính sách khủng
bố các phong trào cách mạng. Phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh dần lắng xuống, rồi thoái trào
và cuối cùng đi đến thất bại. Ngày
18/4/1931 Trần Phú -Tổng bí thư đầu tiên
của Đảng Cộng sản Đông Dương
bị Pháp bắt ỏ Sàig̣n và từ trần tại
bịnh viện Chợ Quán ngày 6/9/1931. Trong thư
gửi Quốc tế Cộng sản không ghi ngày, VICTO bút
danh của Nguyễn Ái Quốc báo cáo “Đồng
chí Tổng bí thư đă bị bắt ngày 19 hoặc
20-4. Riêng ở Hài Pḥng đă có 36 trường hợp
bị bắt ngày 20-4 và 16 trường hợp bị
bắt ngày 23-4. Điều đó nói lên rằng
mọi hoạt động ở bốn phương
đều bị lộ. Nhiều tổ chức Đảng
ở địa phương đă bị giải tán,
nhiều tài liệu quan trọng rơi vào tay cảnh sát.
Chúng tôi nên chỉ cho các đồng chí của ḿnh
kế hoạch đấu tranh như thế nào cụ
thể? Nếu chúng ta cứ để họ đi theo
con đường đó th́ sẽ rất manh động
nguy hiểm. Tôi đề nghị Quốc tế
Cộng sản chỉ thị cho tất cả các
tổ chức cách mạng của chúng ta tham gia với
khẩu hiệu “Bảo vệ Đông Dương” cùng
với những hành động: “Không can thiệp vào
Trung Quốc” và “ Không can thiệp vào nước Nga
Xôviết”. (9) Lá thư
trên có thể viết vào cuối tháng 4/1931 của
Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Quốc tế
Cộng sản về t́nh h́nh VN hồi đầu năm
1931. Trong giai đoạn 1930-1935, Nguyễn Ái Quốc
bị Trần Phú và Hà Huy Tập cùng quê hương
Nghệ Tĩnh, đều theo học Đại học
Phương Đông của Quốc tế CS ở
Mạc Tư Khoa, phê phán về đường lối
cải lương “liên minh với tư sản và
địa chủ vừa và nhỏ”, không đúng
đường lối đấu tranh giai cấp
của Đệ Tam Quốc Tế. (10) Điểm
4 trong ‘Sách lược vắn tắt của Đảng”
đă ghi: “Đảng phải hết sức liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
thanh niên, Tân Việt, v.v. để
kéo họ đi vào phe vô sản. C̣n đối với
bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rơ mặt phản cách mạng th́
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đă ra mặt phản cách
mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) th́ phải
đánh đổ”.
Điểm này được xác nhận trong “Chương
tŕnh tóm tắt của đảng”: “Đảng lôi
kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về
phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp
hoặc lôi kéo phú nông, tiểu tư sản và tư
sản bậc trung, đánh đổ các đảng
phản cách mạng như Đảng Lập hiến,
v.v”. (11) Có
lẽ dựa vào
điểm 4 trên, tháng 3/1935 những người
chống đối Nguyễn Ái Quốc đă gởi
đến Quốc tế Cộng sản bức thư phê
phán nặng nề tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc trong
phong trào cách mạng ở Đông Dương. Đó là “tàn
dư của tư tưởng dân tộc cách mạng
pha trộn với chủ nghĩa cải lương,
chủ nghĩa duy tâm của đảng của các
đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc”. Bức
thư nhấn
mạnh: “Những tàn dư ấy rất
mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm
trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng
sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng
chống những học thuyết cơ hội này
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của
Đảng Thanh niên là rất cần thiết (…) Chúng
tôi đề nghị đồng chí Lin viết một
cuốn sách để tự phê b́nh những khuyết
điểm đă qua”. (12) Có
phải v́ những cáo buộc trên, Nguyễn Ái
Quốc được lịnh trở lại Liên Xô
từ đầu mùa xuân 1934? Với bí danh Lin,
Nguyễn Ái Quốc học ở trường Quốc
tế Lenin (1934-35) và tham dự Đại hội
lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế từ ngày
25/7/đến 20/8/1935. Trong thời
gian này, Ban Lănh đạo Hải ngoại
Đảng Cộng sản Đông Dương gởi
Quốc tế Cộng sản bức
thư đề ngày 20/4/1935, kết tội Nguyễn Ái
Quốc phải chịu trách nhiệm chính về
việc hơn 100 đảng viên của “Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên” bị bắt do
việc ông biết Lâm Đức Thụ trước
đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp
tục sử dụng. (13) Quốc
tế Cộng sản đă thành lập Ban thẩm tra
về những tố cáo này, nhưng không t́m ra
chứng cứ. Quốc tế Cộng sản vẫn tín
nhiệm Nguyễn Ái Quốc nên từ năm 1938, ông
được phép trở lại Trung Quốc hoạt
động. Lúc bấy giờ Mao Trạch Đông và Tưởng
Giới Thạch hợp tác để kháng Nhật.
Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Quang gia
nhập Hồng quân Trung Quốc với cấp bậc
thiếu tá công tác tại văn pḥng Bát lộ quân
ở Quế Lâm, sau đó đến Côn Ninh rồi Diên
An là căn cứ đầu năo của Đảng CS.
Trung Quốc. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc c̣n t́m cách liên
lạc với Hồ Học Lăm (1884-1943) cùng quê hương
Nghệ An, lúc bấy giờ là một sĩ quan cao
cấp của quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng. Trong phong
trào Đông du, Hồ Học Lăm được Phan
Bội Châu cử đi học Trường Vơ bị
“Chấn Vơ” ở Đông Kinh, trong lớp học này
có Tưởng Giới Thạch. Sau đó chính phủ
Nhật trục xuất tất cả học sinh VN
về nước. Hồ Học Lăm trở lại trường
quân sự ở Trung Quốc, gặp lại bạn cũ
họ Tưởng. Ông tốt nghiệp năm 1911,
phục vụ trong quân đội của Trung hoa
Quốc dân Đảng Nguyễn Ái Quốc nhờ Lê
Thiết Hùng, sĩ quan cao cấp trong quân đội Tưởng
Giới Thạch và là con rễ Hồ Học Lăm,,
chuyển đến cụ Lăm lời yêu cầu, mong
cụ bằng mọi cách giúp đỡ đảng
bạn. Cụ nói: “H́nh hài, thể xác tôi lúc này là
Quốc dân đảng Trung Quốc, nhưng trái tim, tâm
hồn tôi thuộc về cách mạng, về Tổ
quốc Việt Nam” Đầu
năm 1936 Hồ Học Lăm cùng Nguyễn Hải
Thần với sự giúp đỡ của Quốc dân
Đảng Trung Hoa thành lập “Việt Nam Độc
lập Đồng minh Hội” để đoàn
kết những người Việt yêu nước
thuộc mọi khuynh hướng, trong công cuộc đắu
tranh giành độc lập. Năm 1937 Hồ
Học Lăm đến hoạt động ở Hồ
Nam và lấy tên là Hồ Chí Minh. (14) Dựa
vào tổ chức này, đầu năm 1940 Nguyễn Ái
Quốc chỉ đạo việc thành lập
“Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh
hội” ở Tĩnh Tây để tập hợp các
lực lượng cách mạng VN hải ngoại và
trong nước. Đại biểu Đảng CS Đông
Dương mời Hồ Học Lăm tham dự với tư
cách là hội trưởng hội Đồng minh cũ.
Cụ bị bịnh không đến dự và gởi thư
chúc mừng đề ngày 20/3/1941. Cụ yêu cầu
những người kế tục hội phải “có
tinh thần đoàn kết và mỗi ngày một đoàn
kết then lên. Có đoàn kết mới có lực lượng.
Cơ hội này rất tốt cho chúng ta, chúng ta
phải cùng nhau bắt tay bước lên con đường
tranh đấu”.Nhờ công tác ở Cục Tác
chiến trong bộ Tổng Tham mưu của Thống
chế Tưởng Giới Thạch với quân hàm
cấp tướng, Hồ Học Lăm biết được
tin Trung Hoa Quốc dân Đảng chuẩn bị thành
lập tổ chức “Hoa quân nhập Việt”, ông t́m
cách báo cho Phùng Chí Kiên tin tức này để
Nguyễn Ái Quốc t́m cách ứng phó. Đến
cuối tháng Giêng 1941, ông trở về Việt Nam (15) Trong
thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, trong
3 tháng đầu năm 1940 ba tổng bí thư Đảng
CS Đông
Dương là Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn
Cừ lần lượt bị mật thám Pháp bắt
giam. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa 23/11/1940 thất
bại, một số cán bộ cao cấp khác bị
bắt như Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên và Vơ Văn
Tần bí thư xứ ủy Nam Kỳ, Nguyễn
Thị Minh Khai Bí thư Thành ủy Sàig̣n-Chợlớn
bị Pháp bắt và
kết án tử h́nh. Ngày 26/8/1941 họ bị xử bắn cùng
với Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ. (C̣n
tiếp) |