Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Phần
2 Lê Quế Lâm
|
Giới
thiệu tóm lược nội dung tác phẩm (II) Cuộc
đàm phán Mỹ-Bắc Việt bắt đầu
từ ngày 13/5/1968 tại Paris. Phái đoàn Mỹ do
Averell Harriman và Cyrus Vance làm trưởng và phó đoàn.
Phía Hà Nội do Xuân Thủy và Hà Văn Lâu làm trưởng
và phó đoàn. Trong thời gian đầu hai bên chỉ
tranh luận về đề tài Cộng sản Bắc
Việt và Hoa Kỳ, ai là kẻ xâm lăng miền Nam
Việt Nam? Đến đầu tháng 6/1968 Hà Nội
gởi Lê Đức Thọ -ủy viên Bộ Chính
trị sang Paris làm cố vấn phái đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Từ đó cuộc họp
mới đi vào mục tiêu chính. Đ̣i hỏi của
Bắc Việt là Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn
việc ném bom miền Bắc và các hoạt động
chống lại nước VNDCCH. Harriman đồng ư nhưng
trước hết Hà Nội phải thảo luận
nghiêm chỉnh để giải quyết chiến tranh
ở miền Nam. Theo
Harriman, muốn nói chuyện nghiêm chỉnh vấn đề
Nam VN phải có đại diện của Sàig̣n tham
dự hội nghị. Chính phủ VNCH và quân đội
của nó là một thực thể mà chính phủ VNDCCH
không thể lờ đi được. Nó phải
được tham gia vào bất cứ cuộc nói
chuyện nào về tương lai chính trị Miền
Nam. C̣n MTGPMN chỉ là tay sai của Bắc Việt
ở miền Nam, quân đội của nó do sĩ quan
Bắc Việt chỉ đạo. Harriman bày tỏ
với Thọ “cả Hà Nội lẫn Hoa Thạnh
Đốn đều không có quyền định đoạt
tương lai chính trị của miền Nam VN. Chúng ta
cần tập trung t́m cách chấm dứt chiến tranh
để nhân dân Miền Nam quyết định tương
lai chính trị của họ”. Harriman nhắc
lại lời của ông Lê Đức Thọ ủng
hộ cương lĩnh MTGPMN chủ trương có
sự độc lập cho Nam Việt Nam và nói
rằng: “Nếu thế th́ chúng ta có thể
được một giải pháp thực hiện
mục đích đó. Có nhiều điểm trong cương
lĩnh của Mặt trận cũng phù hợp với
ư nghĩ của phía Mỹ. Để đi tới
thoả thuận về quyền tự quyết cho nhân dân
Nam VN, chúng tôi yêu cầu có đại diện chính
phủ VNCH ở phía chúng tôi. Chúng tôi hoàn toàn chấp
nhận là phía các ông có đại diện của
Mặt trận, của Liên minh hoặc người nào
khác”. Trong
cuộc họp công khai lần thứ 26 ngày 16/10/1968,
Harriman trao cho Xuân Thủy đề nghị: khi nào
Bắc Việt chịu họp với VNCH và MTGPMN th́
Mỹ sẽ ngưng ném bom Bắc Việt. Ngày 21/10 Xuân
Thủy báo cho Harriman biết: “Chính phủ VNDCCH sau
khi trao đổi ư kiến với Ủy ban trung
ương Mặt trận Dân tộc giải phóng đồng
ư rằng sau khi Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn và không
điều kiện việc ném bom và mọi hành động
chiến tranh khác chống nước VNDCCH sẽ có
cuộc hội nghị bốn bên gồm VNDCCH, Mặt
trận Dân tộc GPMNVN, Hoa kỳ và VNCH, nhằm t́m
một giải pháp chính trị đúng đắn cho
vấn đề Việt Nam trên cơ sở tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam”. Hai
bên đồng ư có cuộc họp 4 bên, vấn đề
kế tiếp là khi nào Mỹ chấm dứt ném bom và
ngày nào cuộc họp sẽ khai diễn? Lúc bấy
giờ Johnson muốn cuộc họp diễn ra ngày
2/11/1968, năm ngày trước khi diễn ra cuộc
bầu cử tổng thống ở Mỹ. Johnson hy
vọng kế hoạch ḥa b́nh của ông sẽ giúp
ứng cử viên đảng Dân chủ -Phó tổng
thống Humphrey đắc cử. Do đó Xuân Thủy báo
cho Harriman “Nếu ngày 2/11 các ông muốn họp phiên
đầu tiên th́ ngày 27/10 các ông phải chấm
dứt ném bom”. Đây là điều khó khăn cho
Johnson v́ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chưa
chấp nhận đàm phán. Không
thuyết phục được VNCH, ngày 31/10/1968 Johnson
phải đơn phương tuyên bố chấm
dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc. Cuộc
họp 4 bên dự trù diễn ra ngày 6/11, nhưng ngày
2/11 trước lưỡng viện Quốc hội,
Thiệu tuyên bố VNCH không tham dự hội nghị 4
bên ở Paris. Kế hoạch ḥa b́nh của đảng
Dân chủ kể như thất bại. Nixon đắc
cử tổng thống với 50,3% c̣n Humphrey đạt
49,7% chỉ kém Nixon 500 ngàn phiếu (0,6%). Nếu
Thiệu chấp nhận ủng hộ kế hoạch ḥa
b́nh của Johnson, kết quả bầu cử có
thể sẽ khác đi. Mối
bất đồng giữa giữa lănh đạo HK và
VNCH xảy ra đúng vào ngày Sài G̣n kỷ niệm đệ
nhất chu niên nền Đệ nhị Cộng Ḥa.
(1/11/1968) là điềm xấu của chế độ
tự do ở miền Nam VN. Từ 1969 các lănh tụ
Đảng Dân chủ Mỹ không c̣n liên lạc
với Ṭa Đại sứ VNCH ở Washington. Sau HĐ
Paris 1973, Đảng Dân chủ nắm đa số
ở Quốc Hội, họ từng bước cắt
giảm viện trợ và chấm dứt yểm trợ
VNCH hồi đầu năm 1975. Ba
tháng trước khi rời Bạch cung, Johnson quyết
định ngưng hoàn toàn việc ném bom Miền
Bắc, mời hai chính phủ ở Miền Nam là VNCH và
MTGPMN tham dự đàm phán với Mỹ và Bắc
Việt để họ tự quyết định công
việc nội bộ của họ. Johnson đă
chấm dứt giai đoạn Mỹ trực tiếp
điều khiển cuộc chiến, bàn giao nhiệm
vụ cho người kế nhiệm điều động
cuộc chiến trên cả hai mặt chiến thuật
và chiến lược trong giai đoạn mới: VNCH
đảm nhận cuộc chiến, HK tiến hành đàm
phán chấm dứt chiến tranh và rút quân. Trong
diễn văn nhậm chức ngày 20/1/1969, tân tổng
thống HK Richard Nixon tuyên bố sẽ chấm dứt
chiến tranh VN trong danh dự và trên một căn
bản hợp lư được mọi người
chấp nhận để từ đó tạo dựng
một nền ḥa b́nh bền vững cho thế
giới. Ḥa b́nh là ưu tiên số một trong chính sách
của ông. Ngày
24/7/1969 Nixon đến một quần đảo ở
phía Nam Thái B́nh Dương để chào đón phi hành
gia Neil Amstrong -người đầu tiên của trái
đất đă đổ bộ lên mặt trăng trên
phi thuyền Apollo 11. Hôm sau trong cuộc họp báo ở
đảo Guam, Nixon công bố chính sách mới của
ông về chiến tranh VN, bắt đầu rút quân
khỏi Nam Việt Nam. Chính sách này được ông
tŕnh bày với nhân dân Mỹ trong diễn văn ngày
3/9/1969. Ông cho biết sẽ áp dụng mọi biện
pháp cần thiết để kết thúc chiến tranh
VN, không phải bằng cách rút quân mà là đàm phán ḥa
b́nh, đảm bảo được sự ổn
định ở Nam VN. Để thực hiện
mục tiêu này, HK vẫn duy tŕ các cam kết viện
trợ kinh tế quân sự, nhưng từ nay VNCH
phải tự giải quyết cuộc chiến của
họ. Đó là chủ trương “Việt Nam hóa
chiến tranh” (Vietnamization of the Vietnam War) của
Nixon. Hai
mục tiêu chính của HK trong việc thực hiện
Việt Nam hóa chiến tranh là trao dần trách nhiệm
cho chính phủ VNCH để Mỹ chấm dứt
sự can dự và hoàn tất nhiệm vụ kết thúc
chiến tranh bằng một giải pháp chính trị công
bằng. Một giải pháp không những phù hợp
với lợi ích lớn nhất của các dân tộc
mà c̣n là mẫu mực để giải quyết các
vụ tranh chấp quốc tế trong giai đoạn ḥa
b́nh, hữu nghị và hợp tác. Trước
Đại hội đồng LHQ năm 1970, Nixon thúc
hối các vị lănh đạo thế giới hăy cùng
nhau giải quyết để "25 năm c̣n
lại của thế kỷ này sẽ là một thế
giới không chiến tranh, tṛn một thế hệ
sống trong ḥa b́nh". Ông mong muốn "chấm
dứt thời đại của những sự đối
đầu, chuyển sang một thời đại
mới, thời đại của những cuộc thương
thuyết trong tinh thần hiểu biết lẫn nhau".
Ông nêu ra các yếu tố có lợi ích chung cho cả
hai nước để kêu gọi LX hợp tác với
HK trong mục tiêu bảo vệ ḥa b́nh thế giới:
- không một bên nào muốn có một trận chiến
tranh nguyên tử, - chi phí lớn lao của cuộc
chạy đua tăng cường vũ lực, -
khả năng hợp tác và phát triển thương
mại giữa hai nước, - những đ̣i hỏi
tổng quát về việc phát triển kinh tế và xă
hội. Trước
đó tại bàn đàm phán Paris, HK và CS Bắc
Việt đă thỏa thuận mở rộng cuộc thương
thảo để hai bên miền Nam VN gặp nhau để
họ trực tiếp giải quyết công việc
nội bộ mà không có sự can thiệp của bên
ngoài. Nixon đă thuyết phục Thiệu chấp
nhận gởi phái đoàn VNCH sang Paris tham dự ḥa
đàm. Phái đoàn do đại sứ Phạm
Đăng Lâm làm trưởng đoàn cùng các thành viên
là Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Ngọc Huy, Vương Văn
Bắc, Nguyễn Thị Vui, Nguyễn Triệu Đang.
Ngoài ra Phó TT Nguyễn Cao Kỳ được cử làm
cố vấn theo dơi cuộc đàm phán. Phái đoàn
Mỹ do Henry Cabot Lodge dẫn đầu. Phái đoàn
VNDCCH vẫn do Xuân Thủy làm trưởng đoàn, Lê
Đức Thọ làm cố vấn. Phái đoàn MTGPMN do
Trần Bửu Kiếm, trưởng ban đối
ngoại của Mặt trận làm trưởng đoàn.
Ngày 8/6/1969 chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
ḥa Miền Nam Việt Nam ra đời, Trần Bửu
Kiếm đảm nhận chức vụ bộ trưởng
Phủ thủ tướng, bà Nguyễn Thị B́nh
-bộ trưởng Ngoại giao thay thế Trần
Bửu Kiếm làm trưởng đoàn. Hội
nghị bốn bên chính thức khai diễn tại Paris
từ 25/1/1969. Hà Nội vẫn duy tŕ lập trường
cũ 4 điểm ngày 8/4/1965. Ngày 7/5/1969, trong
cuộc gặp riêng với Xuân Thủy, Lodge cho biết
đă nghiên cứu bốn điểm kể trên và
đưa ra một số đề nghị. Về
điểm 1, Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân VN, Mỹ chỉ t́m cách
tạo ra một t́nh h́nh trong đó Bắc VN chung
sống với các nước láng giềng ở Đông
Nam Á, nhưng miền Nam VN không thể thực hiện
được quyền cơ bản đó chừng nào
c̣n có mặt của các lực lượng từ bên
ngoài xâm nhập vào miền Nam VN. V́ vậy hai bên cùng
rút quân. Về điểm 2, Mỹ sẳn sàng đ́nh
chỉ những hoạt động chiến tranh đối
với miền Bắc, nhưng phải khôi phục
giới tuyến 17 và khu phi quân sự. Mỹ
đồng ư điểm 4: Việc thống nhất VN
sẽ do nhân dân hai miền tự quyết định
không có sự can thiệp từ bên ngoài. C̣n điểm
3 th́ quan điểm hai bên có khác nhau, nhưng Lodge
nhận thấy tuyên bố của Trần Bửu
Kiếm trong phiên họp thứ 14 -ngày 26/4/1969 nói
rằng “tổng tuyển cử tự do có thể
mở đường cho một cuộc thảo
luận bổ ích” và đề nghị Mặt
trận nói chuyện với Sài G̣n, “lực lượng
vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên miền
Nam giải quyết". Theo Lodge, MTGPMN đă
đưa ra một giải pháp thực tế tỏ rơ
thiện chí muốn có nói chuyện giữa những người
Nam VN để giải quyết không những vấn
đề quân sự mà cả vấn đề chính
trị. Ngày
8/5/1969 MTGPMN công bố lập trường 10 điểm.
Lập trường này có vẻ mềm dẻo hơn,
họ không c̣n đ̣i giải quyết công việc
nội bộ miền Nam VN theo cương lĩnh
của họ mà thực chất là do Hà Nội soạn
thảo. -
Điểm 1: Tôn trọng các quyền dân tộc cơ
bản của nhân dân VN là độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ. -
Điểm 2: Chính phủ Mỹ phải rút hết quân
đội, nhân viên quân sự, vũ khí và dụng
cụ chiến tranh của Mỹ và chư hầu ra
khỏi MN mà không được đ̣i hỏi điều
kiện ǵ. -
Điểm 3: Quyền của nhân dân VN chiến đấu
để bảo vệ Tổ quốc ḿnh là quyền
tự vệ thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Vấn đề các lực lượng vũ trang
ở MN sẽ do các bên VN cùng nhau giải quyết. -
Điểm 4: Nhân dân miền Nam VN tự quyết định
công việc nội bộ của ḿnh, không có sự can
thiệp của nước ngoài. -
Điểm 5: Trong thời gian từ khi ḥa b́nh
được lập lại cho đến khi tổng
tuyển cử không một bên nào được cưỡng
bức nhân dân miền Nam VN phải chấp nhận
chế độ chính trị của ḿnh. -
Điểm 6: Miền Nam VN thực hiện chính sách
ngoại giao ḥa b́nh trung lập. -
Điểm 7: Việc thống nhất VN sẽ thực
hiện từng bước bằng phương pháp ḥa
b́nh trên cơ sở bàn bạc và thảo luận
giữa hai miền không có sự can thiệp của bên
ngoài. -
Điểm 8: Hai miền Nam Bắc cam kết không tham
gia liên minh quân sự với nước ngoài, không cho
phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân
đội và sự bảo hộ của bất cứ
nước nào, liên minh hoặc khối quân sự nào. -
Điểm 9: Giải quyết những hậu quả
của chiến tranh như thả những người
bị bắt, Mỹ bồi thường chiến tranh
cho cả hai miền. -
Điểm 10: Các bên sẽ thỏa thuận về
một sự giám sát quốc tế đối với
việc rút quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí
và dụng cụ chiến tranh của Mỹ và các nước
chư hầu thuộc phe Mỹ ra khỏi VN. Lập
trường trên của MTGPMN có nhiều điểm phù
hợp với chủ trương của Mỹ, trở
thành cơ sở để chấm dứt chiến
tranh. Ngày 14/5/1969, nói chuyện với dân chúng Mỹ qua
hệ thống truyền h́nh, Nixon đưa ra giải
pháp chấm dứt chiến tranh VN bằng đề
nghị quân đội Mỹ và Bắc Việt cùng
triệt thoái khỏi miền Nam VN trong ṿng một năm
sau khi hiệp định ḥa b́nh được kư
kết. Một cơ cấu quốc tế được
thành lập để kiểm soát việc rút quân và giám
sát cuộc tuyển cử tự do ở Miền Nam
để nhân dân Miền Nam VN quyết định công
việc nội bộ của họ. Lê Đức
Thọ bác bỏ đề nghị hai bên cùng rút quân.
Trong bàn đàm phán ở Paris, ông thường nói
với Kissinger: “Quân Mỹ rút về Mỹ, c̣n quân
đội chúng tôi đóng trên đất nước
chúng tôi th́ rút đi đâu? Truyên thống dân tộc
chúng tôi, nơi nào đất nước bị
ngoại bang xâm lược th́ người dân phải
chiến đấu để bảo vệ”. V́
thế cuộc diện “vừa đánh vừa đàm”
tiếp tục diễn ra. Chủ
trương của Hà Nội là chiến thắng
Mỹ không phải ở bàn hội nghị mà ở
chiến trường. Họ dự trù mở một
trận tấn công lớn vào năm 1972, lúc đó có
cuộc bầu cử thổng thống ở Mỹ,
trong khi ở Nam VN chỉ c̣n khoảng năm bảy
chục ngàn quân Mỹ, phần lớn không tác
chiến. Hà Nội kỳ vọng TT Nixon sẽ nhượng
bộ như Johnson hồi năm 1968. C̣n
TT Nixon t́m cách nói chuyện với LX và TC để
kết thúc chiến tranh VN, mở đầu giai đoạn
ḥa dịu, chấm dứt cuộc xung đột Đông
Tây, xây dựng một thế hệ ḥa b́nh. Từ năm
1969 HK đă thương thảo với LX về vũ
khí nguyên tử ở Helsinki (Phần Lan). HK hứa cho LX
hưởng qui chế tối huệ quốc trong
việc giao thương và bán cho LX một số
lớn lúa ḿ với giá rẻ với điều
kiện thanh toán dễ dàng. HK thừa nhận Bắc
Kinh là một thực thể chính trị quan trọng
cho sự hợp tác ḥa b́nh và an ninh thế giới. HK
không c̣n phản đối việc TC xin gia nhập LHQ.
Từ năm 1971 Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trở thành
hội viên của tổ chức quốc tế này và là
thành viên thường trực của Hội đồng
Bảo An, ngang hàng với LX và HK. Với
thiện chí và hành động cụ thể làm
tiền đề như Mỹ rút quân khỏi VN,
cuộc đàm phán ḥa b́nh đang diễn ra ở Paris,
TT Nixon đóng vai tṛ sứ giả ḥa b́nh đi Mạc
tư Khoa và Bắc Kinh trong 10 tháng cuối của
nhiệm kỳ để xây dựng nền tảng cho
mối quan hệ Đông Tây. HK sẽ chấm dứt
chiến tranh VN trong danh dự và trên căn bản
được các phe liên hệ chấp thuận. Trước
khi đi Bắc Kinh, Nixon đă xác nhận với TT
Thiệu: “Tôi xin cam đoan với Ngài rằng tôi
sẽ đưa ra lập trường của Hoa Kỳ
và của Việt Nam Cộng Ḥa một cách minh bạch
và mạnh mẽ là cuộc chiến tại Việt Nam
phải được kết thúc bằng những
cuộc thương lượng trực tiếp với
Hà Nội, hoặc nếu không được như
thế th́ bằng khả năng mỗi ngày mỗi
lớn của Việt Nam Cộng Ḥa để tự
vệ và chống lại sự xâm lược của Hà
Nội”. Đây là lá thư đầu tiên trong
gần 30 thư của Nixon gởi TT Thiệu đề
ngày 30/12/1971. Ngày
21/2/1972 Nixon đến TQ, đề tài tranh căi gay
gắt là vấn đề “đế quốc bá
quyền” và t́nh h́nh bất ổn định trên
thế giới. Khi đề cập đến “nước
nào trong hai siêu cường hạt nhân là nguy hiểm hơn?”
Mao Trạch Đông nói thẳng: “Hiện nay vấn
đề xâm lược do Trung Quốc gây ra là tương
đối nhỏ, v́ các ông muốn rút một phần
quân đội của các ông về đất ḿnh, c̣n
quân đội của chúng tôi th́ không kéo ra nước
ngoài”. Nhận định của Mao cho thấy
LX là mối quan tâm chủ yếu của Bắc Kinh
đối với nền an ninh thế giới. Nixon c̣n
hỏi thẳng Mao: “Đối với Trung
Quốc, sự xâm lăng từ Mỹ hay sự xâm lăng
từ Liên Xô, nguy cơ nào là nghiêm trọng nhất?” Mao
trả lời: “Nguy cơ từ Liên Xô”. Thông
cáo chung Thượng Hải kết thúc chuyến công du
của TT Nixon đến TQ nêu rơ: “Cả hai bên
đều không âm mưu cầu bá quyền và đều
phản đối bất cứ nước nào hay
tập đoàn nào cố gắng thiết lập bá
quyền đó ở khu vực châu Á”. Do cam kết
trên, HK từng bước rút khỏi miền Nam VN
để chứng tỏ họ không phải là kẻ bá
quyền. Sau
cuộc hành quân của QLVNCH vào Cam Bốt và Hạ Lào
năm 1970 và 1971, các giới b́nh luận chiến
sự HK có khuynh hướng đồng t́nh với
sự tuyên truyền của Hà Nội cho rằng “Các
cuộc thử sức nói trên chứng tỏ QLVNCH -xương
sống của kế hoạch Việt hóa chiến tranh,
không thể đương đầu nổi với quân
CS Bắc Việt”. Những lập luận trên
đă khuyến khích Hà Nội thực hiện một
nổ lực cuối cùng như hồi Tết Mậu
Thân. Họ mở cuộc tấn công quy mô trong thời
điểm quân Mỹ rút đi gần hết và
tại HK đang chuẩn bị cuộc bầu cử mà
khuynh hường chủ ḥa đang bao trùm trong dư
luận. Cuộc
tấn công mùa Hè 1972 của CSBV diễn ra vào lúc LX và
HK chuẩn bị cuộc họp thượng đỉnh
vào cuối tháng 5. Kissinger được chỉ thị
phải đ̣i Brezhnev chấp nhận hợp tác với
Mỹ để ḥa giải vấn đề VN. Nixon coi
đây là điều kiện tiên quyết trước
khi thảo luận các đề tài khác. HK khẳng
định không có một thỏa thuận nào với
LX cho đến khi nào LX thuyết phục được
Hà Nội chấm dứt chiến tranh bằng thương
thuyết. Ngày
26/4/1972 nói chuyện với dân chúng Mỹ qua hệ
thống truyền h́nh, Nixon tuyên bố sẽ nối
lại cuộc đàm phán ở Paris “với kỳ
vọng là những cuộc thảo luận hữu ích này
sẽ đi đến tiến bộ nhanh chóng qua
mọi ngả, mọi đường hiện có”.
Nixon lên án việc Bắc Việt đưa 3 sư
đoàn chính qui vượt khu phi quân sự ở vĩ
tuyến 17 để tấn công VNCH. Hành động này
đă vi phạm hiệp định mà Bắc Việt
đă kư hồi năm 1954 và vi phạm thỏa hiệp
đă đạt được với TT Johnson hồi
năm 1968 khi HK ngưng ném bom miền Bắc để
đổi lại việc Hà Nội hứa sẽ tôn
trọng vùng phi quân sự. Nixon xác nhận là HK không
bao giờ chủ trương xâm chiếm miền
Bắc VN hoặc bất cứ nơi nào trên thế
giới. HK đề ra giải pháp ḥa b́nh danh dự
cho cả đôi bên, trong đó hai miền Nam Bắc VN
đề phải tôn trọng nền độc lập
của nhau. Cuộc
đàm phán tiếp tục trở lại nhưng Hà
Nội vẫn tỏ ra cứng rắn trong các đ̣i
hỏi của họ, đồng thời tiến hành
kế hoạch quân sự, bao vây An Lộc -cửa
ngỏ phía Bắc Sài G̣n. Để chống lại
lời tố cáo của Nixon lên án Bắc Việt vượt
vùng phi quân sự xâm lược miền Nam, Hà Nội
tuyên bố: “Bất cứ nơi nào trên đất
nước Việt Nam bị xâm lược th́ mỗi
người Việt Nam đều có quyền và có nghĩa
vụ chiến đấu chống xâm lược để
bảo vệ độc lập và tự do của
tổ quốc”. Trước
sự quyết liệt của Hà Nội, Nixon cho
rằng cuộc xâm lăng của BV cần phải
đánh bại và phải được đối phó
bằng hành động. Ông ra lịnh thả ḿn
xuống những hải lộ đi vào các cảng
ở Hải Pḥng nhằm ngăn cản việc
tiếp liệu bằng đường biển của
các nước cộng sản giúp Hà Nội. Khi
ra lịnh phong tỏa, rải ḿn các cảng ở
miền Bắc VN, ngày 8/5/1972 Nixon gởi TT Thiệu lá
thư thông báo quyết định này. Ông xác nhận:
“Xứ sở Ngài cũng như xứ sở tôi không
bao giờ bắt Hà Nội phải chịu một
sự thất bại quân sự. Chúng tôi luôn luôn
cố gắng chấm dứt cuộc xung đột qua
ngỏ thương thuyết bằng cách nào để
cho nhân dân miền Nam Việt Nam c̣n được cơ
hội quyết định tương lai ḿnh mà không
bị bên ngoài cưỡng ép hay can thiệp”. Nixon
viết tiếp “Một cuộc ḥa giải bằng
thương thuyết vẫn là đường lối
chúng tôi ưa chuộng hơn. Nhưng Hà Nội đă
đưa ra cho chúng tôi những điều kiện tiên
quyết tuyệt đối không thể chấp
nhận được và sự thử thách quân sự
của họ đối với Ngài và đồng minh
của Ngài không cho phép một sự lựa chọn nào
khác hơn là đáp ứng theo lối mà chúng ta
phải làm”. Nixon cho biết thêm: “Các
hành động trên sẽ tiếp diễn cho đến
khi nào một cuộc ngưng bắn có quốc tế
kiểm soát trên toàn cỏi Đông Dương và tù
binh Mỹ được phóng thích. Khi các điều
kiện trên đă được đáp ứng, Hoa
Kỳ sẽ ngưng mọi hành động vũ
kực ở Đông Dương, và lực lượng
Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam trong ṿng 4 tháng”. Dù
có những hành động quyết liệt đối
với Hà Nội, cuộc họp thượng đỉnh
giữa hai siêu cường vẫn tiến hành như
dự liệu. Nixon cho rằng không có con đường
khác tốt hơn cho HK và LX là phải chấm dứt
đối đầu và xung đột, chấp nhận
nguyên tắc bất can thiệp, tôn trọng quyền
tự quyết của các dân tộc. Đó là giải
pháp công bằng giúp các cường quốc rút
khỏi các vùng tranh chấp, tạo bầu không khí
hiểu biết lẫn nhau để phát triển
mối thân hữu trên cơ sở đôi bên cùng có
lợi. Cuộc
họp giữa Nixon và Breznhev tại Mạc tư Khoa ngày
22/5/1972 diễn ra trong chiều hướng thuận
lợi, một loạt dự án hợp tác Nga Mỹ
được vạch ra. Song song với nỗ lực
chung của hai nước cam kết giảm bớt xung
đột đi đến loại trừ hoàn toàn nguy
cơ xung đột vũ trang, hai bên đă kư một
thỏa ước lịch sử về "Hạn
chế vũ khí tấn công chiến lược"
(SALT). Kết
quả cụ thể của việc b́nh thường hóa
quan hệ Đông Tây là "Hiệp định
chấm dứt chiến tranh và lập lại ḥa b́nh
ở Việt Nam" được kư kết 8 tháng
sau đó. VN là thế giới chấp tranh được
thu gọn lại, giải pháp mà 5 cường quốc
Hội đồng Bảo an và trên hết là ba thế
lực lớn HK, LX và TC đă chấp nhận cũng là
giải pháp để giải quyết các vấn đề
xung đột của thế giới dựa trên nguyên
tắc bất can thiệp và quyền tự quyết
của các dân tộc. * Trước
áp lực mạnh của HK để kết thúc
chiến tranh và do thúc ép của LX, TC cộng với t́nh
h́nh chính trị tại Mỹ cho thấy Nixon đang
dẫn đầu hơn ứng cử viên bồ câu
McGovern hơn 30% số phiếu thăm ḍ, chắc
chắn ông ta sẽ tái đắc cử vào ngày
7/11/1972, nên hành động tốt nhất đối
với Bắc Việt là chấp nhận thỏa
hiệp với chính quyền Nixon hơn là đợi
đến kết quả bầu cử. Do đó từ
cuối tháng 7/1972 cuộc mật đàm giữa Kissinger
và Lê Đức Thọ tiếp tục trở lại.
Lần này Hà Nội tỏ ra ḥa hoăn với những
đề nghị tiến bộ hơn nhiều, họ
không c̣n đ̣i loại bỏ chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu. Ngày
11/9/1972, Bắc Việt đưa ra đề nghị
mới, họ nhấn mạnh đến "nguyên
tắc giải quyết vấn đề nội bộ
Miền Nam Việt Nam là phải xuất phát từ t́nh
h́nh thực tế có hai chính quyền và các lực lượng
chính trị khác. Do đó cần thành lập ở
Miền Nam Việt Nam một chính phủ ḥa hợp dân
tộc lâm thời gồm ba thành phần ngang nhau để
đảm đang mọi công việc trong thời gian quá
độ để tổ chức tổng tuyển
cử thực sự tự do dân chủ". Hai
tuần sau, trong cuộc mật đàm lần thứ 19,
lần đầu tiên Bắc Việt đồng ư
một cuộc ngưng bắn tại chỗ với
một giải pháp chính trị cho miền Nam VN. Ngày
8/10 Hà Nội đưa ra bản dự thảo hiệp
định, gần như họ đồng ư mọi
đề nghị của HK kèm theo một số điều
kiện của họ để hai bên thảo luận
trong kỳ họp tới. Hai ngày sau, bản dự
thảo hiệp định được Kissinger thông
qua và một lịch tŕnh dự trù tiến hành
được hai bên chấp thuận: -
Ngày 18/10: Kissinger đi Sài G̣n tham khảo dự thảo
hiệp định với chính phủ VNCH. -
Ngày 21/10: HK ngưng oanh tạc và tháo gỡ ḿn
ở các cửa biển Miền Bắc. -Ngày
23/10 Kissinger đi Hà Nội. -
Ngày 24/10: Kissinger và Lê Đức Thọ phê chuẩn
bản dự thảo hiệp định sau khi
được chính phủ VNCH đồng ư. -
Ngày 26/ 10: Bản văn hiệp định được
bốn bên kư kết tại Paris. -
Ngày 27/10: Cuộc ngưng bắn bắt đầu. Vấn
đề duy nhất mà Hà Nội không chịu nhượng
bộ là việc rút quân của họ khỏi MNVN, Nixon
cho rằng: "Hoa Kỳ không có cách nào bắt
buộc Bắc Việt phải nhượng bộ điểm
này". Theo ông, "dù VNCH có xoay ngược
được thế cờ, tái chiếm Quảng
Trị và cố thủ B́nh Long nhưng BV vẫn c̣n
chiếm đóng nhiều khu vực rộng lớn
ở MN dọc theo khu phi quân sự và trên vùng cao nguyên.
Nếu đi đến ḥa giải lại đ̣i BV
phải cho không những lănh thổ mà VNCH không thể
giành lại được, th́ BVsẽ chọn con
đường thà đừng đi tới ḥa giải
c̣n hơn. Nếu cứ khăng khăng đ̣i BV
phải rút ra khỏi MNVN th́ ắt đă không có
được hiệp định ḥa b́nh". Để
giải quyết vấn đề này, HK chỉ đ̣i
BV hứa sẽ không đưa thêm quân vào MNVN nữa.
Nixon hy vọng nếu BV giữ lời hứa, các
lực lượng của họ ở MN sẽ phải
rút ra nếu không th́ tan ră. Đ̣i hỏi của HK
được BV đồng ư, hai bên chấp thuận
một thời khóa biểu để kư kết hiệp
định. (C̣n tiếp P3)
|