Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Phần
3 Lê Quế Lâm
|
Giới
thiệu tóm lược nội dung tác phẩm (III) Theo
đúng lịch tŕnh, ngày 18/10/1972, Kissinger rời Paris
đi Sàig̣n tŕnh bày bản dự thảo hiệp định
với chính phủ VNCH. TT Thiệu kịch liệt
chống đối bản thỏa hiệp dù Kissinger
cố thuyết phục đây là lúc thuận lợi
để đi đến một hiệp ước
với cộng sản v́ "dù sao chăng nữa
QLVNCH cũng đă có trên 1 triệu quân và kiểm soát
được 85% dân số th́ chẳng việc ǵ
phải sợ sự hiện diện của 140 ngàn quân
Bắc Việt". Nhưng TT Thiệu muốn trong
bản hiệp định phải ghi rơ BV rút hết
lực lượng quân sự khỏi MN, Hội đồng
Ḥa hợp Ḥa giải Dân tộc không phải là
một h́nh thức của chính phủ liên hiệp và vùng
phi quân sự là biên giới giữa hai miền. Ông c̣n
bày tỏ sự lo ngại là BV sẽ không tôn trọng
những điều cam kết sau khi Mỹ rút khỏi
MN. Cuối cùng ông đ̣i sửa đổi 23 điểm
trong bản dự thảo thỏa hiệp tay đôi
Mỹ-Bắc Việt. Sau
5 ngày thuyết phục không kết quả, Kissinger
rời Sàig̣n và gởi điện báo cho Lê Đức
Thọ biết là ông không thể đến Hà Nội
phê chuẩn hiệp định như đă dự
liệu. Ông xin đ́nh chỉ việc phê chuẩn để
thảo luận tiếp sau ngày bầu cử tại
Mỹ (7/11/1972)... Nhưng quá trể v́ các đơn
vị Cộng quân đă nhận được chỉ
thị xuống đường cắm cờ lấn
đất giành dân khi có ngưng bắn. Ngày
25/10/1972, Cảnh sát đặc biệt tỉnh Quảng
Tín tịch thu được một mật điện
của Bộ Tư lệnh Quân khu 5 CS gởi Thị
đội Tam Kỳ cho biết hiệp định ngưng
bắn sẽ được kư kết ngày 26/10. Kèm theo
mật điện là bản phương án hướng
dẫn việc cắm cờ lấn đất giành dân
và sách động đồng bào xuống đường
mừng ḥa b́nh. Lợi dụng khí thế quần chúng,
cán bộ cộng sản hô hào đốt phá các cơ
sở quân sự tiến tới cướp chính
quyền. Tài
liệu trên được chuyển cấp tốc
về Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp (CDEC). Sáng
sớm hôm sau tác giả bài viết này cùng vị
Chỉ huy trưởng CDEC được lịnh đến
Dinh Độc Lập tŕnh bày chi tiết với Trung tướng
Đặng Văn Quang, Phụ tá An ninh Quốc gia TT
Thiệu. Tuần
lễ trước, khi đến Sàig̣n tham khảo chính
phủ VNCH về bản dự thảo hiệp định,
Kissinger không đề cập ǵ đến việc kư
kết, ông chỉ đưa ra một bản dự
thảo hiệp định bằng Anh ngữ để
hai bên thảo luận. Bản dự thảo hiệp
định là kết quả của cuộc mật
đàm tay đôi giữa Lê Đức Thọ và
Kissinger, hai bên cam kết sẽ giữ bí mật cho
đến cùng v́ trong hiệp định có điều
khoản nói về việc ngưng bắn tại
chỗ. Trong lúc chính phủ VNCH chưa biết ǵ
về việc kư kết và ngưng bắn th́ tại
Trung ương Cục miền Nam và miền Trung Trung
bộ, cán bộ cộng sản đă biết rơ ngày kư
kết và giờ ngưng bắn có hiệu lực để
lợi dụng thời cơ đó chiếm ưu
thế bằng cách lấn đất giành dân và cướp
chính quyền. Tại
Củ Chi (Hậu Nghĩa), Hồng Ngự (Kiến Phong)
và nhiều nơi khác, các đơn vị vũ trang
cộng sản tưởng có ngừng bắn thực
sự nên được lịnh nhào ra đồng
bằng cắm cờ lấn đất giành dân, đă
bị tổn thất nặng nề. Để
biện minh hành động thất tín, chiều 26/10,
đài phát thanh Hà Nội công bố toàn văn bản
dự thảo hiệp định bằng tiếng
Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh, với hai bức
điện xác nhận sự thỏa thuận của TT
Nixon. Bắc Việt tố cáo HK lật lọng tráo
trở v́ Kissinger đă hứa đi Hà Nội phê
chuẩn rồi lại sai hẹn, chỉ v́ muốn duy
tŕ chế độ thực dân mới ở miền
Nam VN. Hai
giờ sau khi Hà Nội công bố bản văn hiệp
định, Kissinger mở cuộc họp báo tại
Bạch cung. Ông thừa nhận: "ḥa b́nh hiện
đang ở trong tầm tay, hiệp định đang
ở trong tầm mắt thấy, đặt trên cơ
sở đề nghị ngày 8/5 vừa qua của
tổng thống... Đó là một đề nghị công
bằng cho tất cả mọi phe". Kissinger cho
biết chỉ c̣n một vài chi tiết nhỏ cần
thảo luận thêm trước khi thỏa hiệp
được kư kết. Việc
Hà Nội công bố bản văn hiệp định
trước cuộc bầu cử tổng thống
ở Mỹ ngày 7/11/1972 giúp nhân dân Mỹ thấy
rằng Nixon đă thực hiện lời hứa:
chấm dứt chiến tranh VN trong nhiệm kỳ đầu
của ông. Nixon tái đắc cử với chiến
thắng long trời lỡ đất trong lịch
sử Mỹ: giành hơn 60% phiếu bầu phổ thông
và 520/537 phiếu cử tri đoàn, thắng McGovern
khắp các tiểu bang chỉ trừ Massachusetts và D.C. Từ
hạ tuần tháng 11/1972, cuộc đàm phán Mỹ và
Bắc Việt khai diễn trở lại. Hai ngày trước
đó, vào ngày 18/11, TT Thiệu nhờ đại sứ
Bunker chuyển một giác thư về Hoa thạnh Đốn,
ông đề nghị sửa đổi 69 điều
trong bản dự thảo hiệp định mà đài
Hà Nội đă công bố. Khi Kissinger đưa ra đề
nghị đ̣i thay đổi của Sàig̣n và một vài
sửa đổi của Hoa Kỳ, Lê Đức
Thọ cương quyết bác bỏ. Trong t́nh thế
đó, Nixon nghĩ rằng muốn đạt được
thỏa hiệp trước ngày ông tuyên thệ
nhậm chức nhiệm kỳ hai, chỉ c̣n cách
phải bỏ hết những đề nghị của
Thiệu và ra lệnh Kissinger thương thảo
với Hà Nội dựa theo thỏa ước căn
bản hồi tháng 10. Để
trấn an Thiệu, Nixon hứa sẽ yểm trợ
đầy đủ cho VNCH và không bao giờ bỏ rơi
MNVN: "Điều này tôi không thể làm và không
bao giờ làm". Nixon cam kết thêm "Nếu Hà
Nội không tuân theo những điều kiện của
Hiệp định này th́ tôi cương quyết
sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và
ác liệt". Đối với TT Thiệu
sự sống c̣n của Miền Nam không phải tùy
thuộc vào số quân CS Bắc Việt có mặt
ở MNVN nhưng nó tùy thuộc vào sự bảo đảm
ḥa b́nh của HK với hai điều kiện: tiếp
tục viện trợ VNCH và phải có phản ứng
kịp thời nếu BV không thi hành đúng thỏa
ước đă kư kết. Sau
bốn ngày thương thảo, cuộc họp giữa
Thọ và Kissinger đi dần đến chỗ bế
tắc. Hà Nội chống lại mọi đề
nghị sửa đổi của Hoa Kỳ, rút lại
những vấn đề đă được thỏa
thuận, đồng thời đưa ra những
đ̣i hỏi mới không thể chấp nhận
được. Cuộc họp đ́nh hoăn đến
đầu tháng Chạp. Ngày 4/12, hai bên tái nhóm, Hoa
Kỳ thấy khó có thể đi đến thỏa
hiệp được với Hà Nội v́ khi Thọ
chấp nhận một nhượng bộ mới th́ ông
ta lại rút lại nhượng bộ cũ. Do đó
Kissinger phải đánh điện yêu cầu Mạc tư
Khoa dùng uy thế của ḿnh để áp lực
Bắc Việt. Liên Xô khuyên Hoa thạnh Đốn nên
kiên nhẫn. Kissinger c̣n nhờ đại sứ TC Hoàng
Chấn chuyển đến Hà Nội lời đe
dọa: "Đàm phán đă đến lúc có
hậu quả nghiêm trọng, Bắc Việt đ̣i
Mỹ hoặc trở lại hiệp định cũ
hoặc nhận một hiệp định mới
xấu hơn, Mỹ không thể chấp nhận cả
hai điều kiện đó. Nếu Việt Nam cứ
giữ lập trường đó, th́ đàm phán đứt
quảng và Mỹ sẽ có mọi hành động để
bảo vệ nguyên tắc của ḿnh". Ngày
7/12/1972, sau bốn giờ thảo luận với
Thọ, Kissinger cảm thấy triển vọng thỏa
hiệp với Bắc Việt ngày càng xa dần, ông
gởi điện báo cáo Nixon: "Sau khi thăm ḍ thêm
ư định của Hà Nội, ta thấy rơ là họ
không hề từ bỏ mục tiêu hay tham vọng
của họ đối với Miền Nam Việt Nam.
Điều họ đă làm là thay đổi chiến lược
bằng cách chuyển từ chiến tranh qui ước
và chủ lực sang chiến lược chính trị và
nổi dậy trong khuôn khổ dự thảo hiệp
định. V́ vậy chúng ta không thể trông đợi
một nền ḥa b́nh trường cửu tiếp theo
sau một hiệp định đă hoàn thành".
Cuối cùng Kissinger nhắc lại câu hỏi mà ông
đă tŕnh bày với Nixon hai tuần trước: “Tiếp
tục chiến đấu bằng cách hủy bỏ
thỏa hiệp bây giờ có tốt hơn là bị
bắt buộc phải phản ứng sau này, một
phản ứng được biện minh bằng
sự vi phạm một hiệp định đă
được kư kết hay không?" Chủ
trương của Nixon là thương thuyết
chấm dứt chiến tranh nhằm "chiến
thắng được ḥa b́nh" và giúp VNCH
"thắng lợi trong ḥa b́nh", nên ông chỉ
thị Kissinger trở lại thương thảo
tiếp với Lê Đức Thọ để có
thể đạt được thỏa ước trước
ngày ông tuyên thệ nhậm chức 20/1/1973. Ngày
13/12/1972, Lê Đức Thọ cho biết Bắc Việt
chưa muốn tiến đến một hiệp định,
ông xin tạm ngừng đàm phán để trở
về Hà Nội tham khảo ư kiến Bộ Chính
trị. Trước
thái độ tŕ hoăn của Hà Nội, Kissinger đề
nghị Nixon hai giải pháp: oanh tạc Bắc Việt
mạnh mẽ để họ trở lại đàm phán
nghiêm chỉnh hoặc chờ đến tháng Giêng để
tiếp tục đàm phán trở lại. Nixon coi sự
bướng bỉnh của Bắc Việt là một thái
độ tráo trở và bất tín, ông kết luận:
"kẻ thù thực sự muốn kéo dài chiến
tranh và không c̣n cách nào khác hơn là phải dùng
chiến tranh để cải hóa đầu óc của
họ". Ngày
14/12, Nixon gởi tối hậu thư yêu cầu Hà
Nội trở lại bàn đàm phán trong ṿng 72 giờ,
đồng thời ra lệnh đô đốc Thomas
Moorer, Chủ tịch TMT Liên quân chuẩn bị lực
lượng B-52 đồn trú ở Guam để tái
oanh tạc Bắc Việt. Quyết định này
được sự tán đồng của Kissinger và
nhóm cố vấn quân sự của Nixon: phải oanh
tạc ồ ạt Miền Bắc, nếu không
chiến tranh kéo dài, chia rẽ trong nước và
sự tổn thất càng chồng chất thêm. Tối
hậu thư của Nixon không được Bắc
Việt hồi âm, ngày 17/12 ông hạ lịnh cho B-52 tái
oanh tạc miền Bắc và thả ḿn xuống hải
cảng Hải Pḥng. Trong hồi kư, Nixon cho rằng
đây là "quyết định đă dằn
vặt ông nhiều nhất trong suốt thời gian làm
tổng thống", nếu ông không có những hành
động quyết liệt, Quốc hội Mỹ cũng
sẽ đi đến quyết định rút quân
khởi Việt Nam để đổi lấy tù binh
Mỹ. Trước
khi oanh tạc Bắc Việt, Kissinger tổ chức
một cuộc họp báo ở Hoa thạnh Đốn,
ông cho biết Nixon đă quyết tâm đi đến
thỏa hiệp để chấm dứt chiến tranh
Việt Nam. Hướng về phía Hà Nội, Kissinger bày
tỏ chủ trương của Mỹ: "Chúng tôi
muốn chấm dứt chiến tranh, một chấm
dứt mang nhiều ư nghĩa hơn là một cuộc
đ́nh chiến. Chúng tôi muốn chuyển từ t́nh
trạng thù địch sang t́nh trạng b́nh thường
hóa, từ b́nh thường hóa sang cộng tác... Nhưng
chúng tôi, không đi đến một giải pháp
nếu nó là một h́nh thức trá h́nh của sự
tiếp tục chiến tranh". Cùng
ngày Nixon ra lịnh dội bom BV, ông cử tướng
Haig sang Sàig̣n trao cho Thiệu bức thư với
lời lẽ được mô tả là gay gắt
nhất từ trước đến nay. Nixon viết
rằng: "Đă đến lúc chúng ta phải
biểu dương một mặt trận đoàn
kết trong lúc thương lượng với kẻ
địch, và Ngài phải quyết định ngay bây
giờ là có muốn tiếp tục liên minh với chúng
tôi hay không, hay Ngài muốn tôi đi t́m một thỏa
hiệp riêng rẽ với kẻ địch, để
chỉ phục vụ quyền lợi cho Hoa Kỳ mà thôi”. Ngày
26 tháng Chạp, 110 pháo đài bay B-52 mở một đợt
tấn công dữ dội nhất nhắm vào các mục
tiêu quân sự ở Hà Nội và Hải Pḥng. Ngay
chiều hôm đó, Bắc Việt đồng ư gặp
lại phái đoàn Hoa Kỳ vào ngày 8/1/1973 tại Paris
với "thái độ thương thuyết nghiêm
chỉnh để dàn xếp những vấn đề
c̣n lại với Hoa Kỳ". Nixon hạ lịnh ngưng
ném bom và gởi công hàm cho chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa, chấp nhận những điều
kiện của Hà Nội đưa ra và hẹn ngày tái
tục đàm phán. Ba
ngày trước khi Mỹ-Bắc Việt tái nhóm để
giải quyết chung cuộc vấn đề VN, ngày
5/1/1973 Nixon lại gởi thư nhắc nhở
Thiệu: "Hậu quả trầm trọng nhất
sẽ xảy ra nếu như chính phủ Ngài tự ư
bác bỏ hiệp định và tách rời khỏi Hoa
Kỳ... Sự từ khước tiếp tay với chúng
tôi của Ngài sẽ là một sự chuốc lấy
thảm họa, nó sẽ phá hủy tất cả
những ǵ mà chúng ta đă cùng nhau tranh đấu
để đạt được trong mười năm
qua. Vào lúc chúng tôi bước vào tuần thảo
luận mới này, tôi hy vọng rằng hai quốc gia
chúng ta sẽ biểu dương một mặt trận
đoàn kết. Tôi nhắc lại những ǵ ở
đây tôi thường viết cho Ngài: bảo đảm
tốt nhất cho sự tồn tại của Miền
Nam Việt Nam là sự đoàn kết của hai
quốc gia chúng ta, sự đoàn kết sẽ bị
nguy hại trầm trọng nếu Ngài cứ nhất
định đi theo con đường hiện nay
của Ngài. Hành động của Quốc hội
kể từ khi tái nhóm hiển nhiên đă chứng minh
được phần nào lời chúng tôi đă báo trước.
Nếu Ngài quyết định và tôi tin tưởng Ngài
sẽ quyết định tiếp tay với chúng tôi, tôi
xin bảo đảm với Ngài rằng tôi sẽ
tiếp tục yểm trợ Ngài trong giai đoạn
hậu chiến, và chúng tôi sẽ đáp ứng
bằng toàn thể sức mạnh của Hoa Kỳ
nếu như Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Một lần nữa tôi xin kết thúc thư này
bằng lời kêu gọi Ngài hăy sát cánh với chúng tôi". Ngày
8/1/1973, tại trụ sở phái đoàn Hà Nội
ở Gifsuryvette, Paris Lê Đức Thọ và Kissinger
lần đầu tiên gặp lại nhau sau thời gian
căng thẳng tột độ. Thái độ của
Thọ rất lạnh nhạt, không như thường
lệ, đứng trước cửa nhà chào đón khách,
Kissinger phải tự tay đẩy cánh cửa bước
vào pḥng họp. Thọ bắt tay Kissinger, ngỏ
lời xin lỗi: "V́ tự ái dân tộc không cho
phép tôi tay bắt mặt mừng kẻ thù vừa tàn
phá quê hương tôi". Kissinger biện bạch
đó chỉ v́ quyết tâm của Mỹ muốn
chấm dứt chiến tranh và Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa đă đáp ứng kịp thời, nhưng
y lại hù dọa "nếu không th́ một sớm
một chiều Hà Nội có thể trở thành b́nh
địa". Thọ trả lời "Với
sức mạnh của không lực Hoa Kỳ, chúng tôi không
chịu nổi một khắc, huống chi đến
một sớm một chiều... Nhưng sức mạnh
Hoa Kỳ không thể chế ngự nổi quyết tâm
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, nó cao hơn
tầm cao của hỏa tiễn đă bắn rơi
B-52 của Mỹ”. Sau
hai ngày thảo luận, Thọ chấp nhận những
đề nghị căn bản của HK theo bản
dự thảo tháng 10/1972. Kissinger vội gửi điện
báo cho Nixon: bản văn hiệp định đă hoàn
thành gồm cả những khoản dự liệu
việc kư kết. Trong khi đó, TT Thiệu vẫn cương
quyết không chấp nhận bản dự thảo
hiệp định. Ngày 14/1/1973, một lần nữa tướng
Haig lại sang Sàig̣n với lá thư hăm dọa
của Nixon gởi Thiệu: "Tôi nhất quyết
cho phê chuẩn hiệp định ngày 23/1 và sẽ kư
kết vào ngày 27/1/1973 ở Paris. Tôi sẽ làm việc
đó dù phải làm một ḿnh. Trong trường
hợp đó, tôi sẽ công khai tố cáo chính phủ
của Ngài làm cản trở cho công cuộc văn hồi
ḥa b́nh ở Việt Nam. Kết quả không tránh
khỏi sẽ là việc cúp viện trợ quân sự
và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi
về nhân sự trong chính phủ của Ngài cũng không
thể cứu văn được. Tuy nhiên tôi hy vọng
rằng sau tất cả những ǵ mà hai quốc gia chúng
ta đă cùng nhau chia xẻ và chịu đựng trong
cuộc chiến này, chúng ta sẽ cùng đứng chung
lại với nhau để tạo dựng và gặt hái
kết quả của ḥa b́nh". Dù
Nixon dùng những lời lẽ cứng rắn để
áp lực, song Thiệu vẫn khăng khăng đ̣i
phải sửa đổi một số điểm trong
bản hiệp định sắp kư. Haig đă
chuyển những yêu sách của Thiệu mà ông mô
tả là "cứng nhắc và không nhượng
bộ" về Bạch cung bằng đường vô
tuyến. Nixon đă trả lời dứt khoát trong lá
thư gởi Thiệu: "Tự do và độc
lập của nước Việt Nam Cộng Ḥa vẫn
luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách
ngoại giao Hoa Kỳ. Tôi đă theo đuổi mục
tiêu này trong suốt cuộc đời chính trị
của tôi và trong bốn năm trời nay, tôi đă lănh
nhiều hậu quả trầm trọng trong nước
cũng như ngoài nước v́ theo đuổi
những mục tiêu này. Chính v́ để bảo
vệ những mục tiêu chung của chúng ta mà tôi
phải nhất quyết chọn đường lối
hành động này. Tôi cả quyết rằng việc
từ chối kư bản hiệp định này sẽ
đưa đến việc cắt đứt mọi
viện trợ cho Việt Nam Cộng Ḥa... Nếu Ngài
không chịu hợp tác, chính phủ Việt Nam Cộng
Ḥa sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về những
hậu quả của nó". Nixon
nhắc lại ba cam kết của Hoa Kỳ là công
nhận Chính phủ VNCH là chính phủ hợp pháp duy
nhất ở MNVN, không công nhận quyền có mặt
của quân ngoại quốc trên lănh thổ Miền Nam
và sẽ phản ứng mănh liệt nếu bản
hiệp định bị vi phạm. Nixon kết
luận: "Tôi cho rằng Ngài có hai lựa chọn
chính yếu: một là tiếp tục cản trở
việc kư kết, đó là hành động có vẻ
lẫm liệt nhưng thiển cận. Hai là dùng
bản hiệp định như một phương
tiện để xây dựng một căn bản
mới cho nền bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng Ḥa.
Tôi không cần phải nói Ngài cũng biết rơ
đây là con đường duy nhất để
bảo vệ mục tiêu chung của chúng ta". Tin
tưởng vào những lời bảo đảm
của Nixon, cuối cùng Thiệu nhượng bộ,
cử Ngoại trưởng Trần Văn Lắm sang
Paris kư hiệp định. Ngày
20/1/1973 Nixon tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ
2, hai hôm sau cựu TT Lyndon Baines Johnson từ trần
(1908-1973). Sáng hôm sau 23/1, trong cuộc mật đàm
cuối cùng (lần thứ 24) Lê Đức Thọ
đ̣i Mỹ viện trợ kinh tế cho Bắc
Việt sau chiến tranh, Kissinger lập lại rằng
việc này đă được thỏa thuận, hai bên
sẽ thảo luận sau khi kư kết hiệp định
và sau khi Quốc hội Mỹ phê chuẩn hiệp định.
Buổi trưa ngày 23/1/1973, tại Trung tâm hội
nghị quốc tế (Centre de Conférence International) ở
Paris, Lê Đức Thọ đại diện chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa với sự
thỏa thuận của chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, và Henry
Kissinger đại diện chính phủ Hoa Kỳ với
sự thỏa thuận của chính phủ Việt Nam
Cộng Ḥa, đă kư tắt phê chuẩn văn kiện
kư kết gồm có bản Hiệp định chấm
dứt chiến tranh tái lập ḥa b́nh ở Việt Nam
và bốn Nghị định thư đính kèm
được thảo bằng tiếng Việt và
tiếng Anh. Cuộc
đàm phán gay go giữa Hoa Kỳ và Cộng sản
Bắc Việt kéo dài đúng 4 năm 8 tháng 10 ngày
đă kết thúc. Sau khi Thọ và Kissinger kư tắt xong
các văn kiện, Phó trưởng đoàn Mỹ William
Sullivan chỉ vào bức tượng con trâu đặt
ở góc pḥng và nói đùa với Lê Đức
Thọ: "Chúng tôi nghe nói các tay lái trâu ở
Việt Nam rất ghê gớm với nhiều thủ
đoạn và chúng tôi may mắn có dịp gặp
họ trong mấy năm qua". Thọ liền
chỉ bức tranh mấy con ngựa treo trên tường
và trả lời: "Chúng tôi cũng nghe nói rất
nhiều về mấy tay chăn ḅ Mỹ và chúng tôi cũng
đă có dịp tiếp xúc với họ". Sau
gần 5 năm đàm phán với 204 phiên họp công
khai và 24 cuộc mật đàm, hai kỳ phùng địch
thủ anh "lái trâu" Việt Nam và chàng "cao
bồi" Mỹ đă dùng mọi thủ đoạn
để kết thúc cuộc chiến Việt Nam trong
danh dự, không có kẻ thắng, người bại. Ngày
27/l/1973, Hiệp định chấm dứt
chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam được
chính thức kư kết, có hai văn bản. Một kư
giữa Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh thay
mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà và
Ngoại trưởng William P. Rogers thay mặt Chính
phủ Hoa Kỳ. Văn bản thứ hai, có thêm
chữ kư của Trần Văn Lắm Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao thay mặt Chính phủ Việt Nam
Cộng Ḥa và Nguyễn Thị B́nh thay mặt Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam
Việt Nam. Hiệp
định gồm có 9 Chương và 23 Điều,
đa số phản ảnh Lập trường 10 điểm
của MTGPMN công bố ngày 8/5/1969 và Lập trường
4 điểm ngày 8/4/1965 của Chính phủ VNDCCH.
Chỉ có 1 điểm quan trọng thay đổi
nội dung là điểm 3 trong hai lập trường
kể trên. - “Quyền
của nhân dân Việt Nam chiến đấu để
bảo vệ Tổ quốc ḿnh là quyền tự
vệ thiêng liêng bất khả xâm phạm” là
nội dung điểm 3 trong lập trường 10 điểm
của MTGPMN trở thành Điều 9a trong Hiệp định:
“Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam
Việt Nam là thiêng liêng bất khả xâm phạm và
phải được tất cả các nước tôn
trọng”. -
“Công việc miền Nam Việt Nam do nhân dân
miền Nam Việt Nam giải quyết theo Cương lĩnh
của Mặt trân Dân tộc Giải phóng miền Nam”
là nội dung điểm 3 trong Lập trường 4
điểm của Hà Nội trở thành Điều 9b
trong Hiệp định: “Nhân dân miền Nam
Việt Nam tự quyết định tương lai chính
trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng
tuyển cử thật sự tự do và dân chủ có
giám sát quốc tế”. Điều
9c của Hiệp định c̣n minh định: “Các
nước ngoài sẽ không được áp đặt
bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân
nào đối với miền Nam Việt Nam”. Điểm
3 trong lập trường 10 điểm của MTGPMN là
nhằm biện minh cho sự can dự của miền
Bắc vào chiến trường miền Nam. Điểm
này đă được thay đổi để minh
định mục tiêu can thiệp của Mỹ là
để giúp người dân miền Nam VN tự
quyết định vận mệnh miền Nam mà không có
sự can thiệp từ bên ngoài. Đó là quyền
tự quyết của nhân dân miền Nam VN được
ghi trong Chương IV gồm có 6 điều trong
tổng số 23 điều của hiệp định. Đối
với đất nước VN, ngay trong Điều 1
của hiệp định đă nêu rơ: “Hoa Kỳ và
các nước khác tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lănh
thổ của nước Việt Nam như Hiệp
định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam
đă công nhận”. Đó là các quyền dân
tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam Lời
mở đầu của Hiệp định đă nói rơ:
“Nhằm
mục đích chấm dứt chiến tranh, lập
lại ḥa b́nh ở Việt Nam trên cơ sở tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân
miền Nam Việt Nam, góp phần cũng cố hoà b́nh
ở châu Á và thế giới. Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với sự
thoả thuận của Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng Hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ
Hoa Kỳ với sự thoả thuận của Chính
phủ Việt Nam Cộng Hoà, đă thoả thuận,
cam kết tôn trọng và thi hành những điều
khoản sau đây: Chương
1: Các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam Điều
1: Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lănh
thổ của nước Việt Nam như Hiệp
định Giơ ne vơ năm 1954 về Việt Nam
đă công nhận. …………. Chương
4: Việc thực hiện quyền tự quyết
của nhân dân miền Nam Việt Nam. Điều
9: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính
phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng những nguyên
tắc thực hiện quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam Việt Nam Tóm
lại nội dung chính của HĐ Paris 1973 là Hoa
Kỳ và các nước từng tham dự hội
nghị Genève 1954 (Nga, Trung Cộng, Anh và Pháp) cam kết
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam cam kết tôn
trọng quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam Việt Nam. Đất nước đă thống
nhất th́ chính phủ phải tôn trọng quyền
tự quyết của toàn dân VN. Ngày
28/2/1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam
được triệu tập tại Paris gồm: 5 nước
ủy viên thường trực Hội đồng
Bảo An, bốn nước thuộc Ủy hội
quốc tế kiểm soát và giám sát việc ngưng
bắn (Hung Gia Lợi, Ba Lan, Nam Dương và Gia Nă
Đại) và bốn bên trong cuộc chiến Việt
Nam. Sau ba ngày thảo luận, bộ trưởng
Ngoại giao 12 nước tham dự hội nghị
đă long trọng kư bản Định ước
của Hội nghị Quốc tế về Việt Nam
trước sự chứng kiến của ông Tổng
thư kư Liên Hiệp Quốc Kurt Waldheim. Bản định
ước gồm 9 điều, trong đó có những
điều quan trọng sau: -
Điều 1: Các
bên kư kết Định ước này trịnh
trọng ghi nhận: tuyên bố tán thành và ủng
hộ Hiệp định Paris về chấm dứt
chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam. -
Điều 2:
Hiệp định đáp ứng các nguyện vọng
và các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam là độc lập chủ quyền
thống nhất và toàn vẹn lănh thổ của nước
Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân
Miền Nam Việt Nam và đáp ứng nguyện
vọng tha thiết về ḥa b́nh của tất cả
các nước trên thế giới. Hiệp định
và các nghị định thư phải được
tôn trọng triệt để và phải được
thi hành nghiêm chỉnh. -
Điều 3: Các
bên kư kết Định ước này trịnh
trọng ghi nhận những cam kết của các bên kư
kết Hiệp định và các Nghị định thư
tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh
hiệp định và các nghị định thư. -
Điều 7:
a) Trong trường hợp xảy ra một sự vi
phạm hiệp định và các nghị định thư,
đe dọa ḥa b́nh, độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ
của nước Việt Nam hoặc quyền tự
quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam, các bên kư
kết hiệp định và các nghị định thư
mỗi bên sẽ tự ḿnh hoặc bằng hành động
thống nhất, trao đổi ư kiến với các bên
khác kư kết định ước này để xác
định những biện pháp cần thiết để
giải quyết. b)
Hội nghị quốc tế về Việt Nam sẽ
được họp lại sau khi chính phủ Hoa
Kỳ và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa,
thay mặt các bên kư hiệp định cùng yêu cầu
hoặc khi có sáu hoặc hơn sáu bên kư kết
hiệp định này yêu cầu. Ngày
29/3/1973, Bộ Tư lịnh MAC-V giải tán, những quân
nhân Mỹ cuối cùng lên phi cơ rời VN trước
sự chứng kiến của Ùy hội Quốc tế
kiểm soát và giám sát ngưng bắn và đại
diện Quân đội Nhân dân VN. Vai tṛ quân sự
của HK coi như đă chấm dứt. (C̣n
tiếp P4) Lê
Quế Lâm
|