Quốc Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính Thống

 

Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài, SQHQ K16 Nha Trang  


   3. Quốc kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890 - 1920

Vua Đồng Khánh ở ngôi được 3 năm th́ băng hà v́ bạo bệnh vào ngày 25 tháng 12, 1888, lúc mới 25 tuổi. V́ các con của ông c̣n nhỏ nên triều đ́nh lập hoàng tử Bửu Lân, con vua Dục Đức lên ngôi năm 1889, lấy hiệu là Thành Thái.

Vua Thành Thái là một vị vua thông minh, hiếu học, c̣n nhỏ tuổi mà sớm có ư chí tự cường dân tộc và có tinh thần canh tân đất nước. Ông thích t́m cơ hội sống gần dân, thường ra khỏi hoàng thành giả dạng đi chơi hay săn bắn, thậm chí về sau c̣n giả điên, nhưng thật ra là để tiếp xúc với các nhà chí sĩ cách mạng.

Trước đó, vào tháng 8 năm 1883 đời vua Hiệp Ḥa, Pháp tấn công vào cửa Thuận An, gởi tối hậu thư bắt ép triều đ́nh phải kư hoà ước Quư Mùi 1883, công nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, c̣n Trung và Bắc Kỳ thuộc quyền bảo hộ của Pháp (có nghĩa là mất tư cách độc lập về ngoại giao và quốc pḥng). Từ đó cho đến năm 1945, nước ta  không c̣n là một lănh thổ nguyên vẹn từ Nam chí Bắc.

Cảm thông tâm trạng bất măn của nhân dân thể hiện qua những tiếp xúc với các sĩ phu ngoài hoàng thành, vua Thành Thái đă không những không thỏa măn các đ̣i hỏi của chính quyền bảo hộ, mà c̣n trọng dụng nhiều nhân tài thanh liêm và đức độ như các ông Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước. Năm 1890, nhà vua xuống chiếu thay đổi quốc kỳ chữ Hán bằng quốc kỳ mới. Lá cờ nền Vàng Ba Sọc Đỏ lần đầu tiên được cấu tạo và được dùng làm quốc kỳ.  



   Đại Nam Quốc Kỳ (1890-1920)
  * Nền vàng
  * Ba sọc đỏ bằng nhau biểu hiệu bắc nam trung bất khả phân

  Có thể nói Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ - gọi tắt là "Cờ Vàng" - là lá "quốc kỳ" đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt, v́ nó hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lănh thổ Việt.

Sự kiến tạo lá quốc kỳ mới ấy có nhiều ư nghĩa vô cùng quan trọng:

- Thể hiện ư chí đấu tranh, bác bỏ hiệp ước Quư Mùi, "chia để trị" của thực dân Pháp, đă tao ra t́nh trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ.

- Xác quyết sự toàn vẹn lănh thổ của Đại Nam Quốc, ba miền đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền tảng màu Vàng của dân tộc Việt ở phương Nam.

- Nêu cao tinh thần "quốc gia dân tộc", bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu.

Chính v́ các ư nghĩa trên mà lá cờ Vàng c̣n được mệnh danh là cờ "Quốc Gia". Như vậy, từ ngữ "quốc gia" có từ cuối thế kỷ 19, đối nghịch với "thuộc địa", chớ không chỉ mới có vào bán thế kỷ 20 khi từ ngữ "cộng sản" xuất hiện.

Lá cờ Quốc Gia đă được tồn tại suốt triều vua Thành Thái. Năm 1907, v́ tánh khí quật cường, không chịu làm một ông vua bù nh́n và không nghe theo các đề nghị của Pháp, vua Thành Thái bị Pháp biếm nhục là ông mắc bệnh "điên" và truất phế ông, rồi đưa ông đi quản thúc ở Vũng Tàu. Con vua Thành Thái là hoàng tử Vĩnh San được triều đ́nh pḥ lên ngôi, lấy hiệu là Duy Tân. Cũng như vua cha, vua Duy Tân tuy c̣n nhỏ tuổi mà đă tỏ ra là một người ái quốc can đảm. V́ thế, lá cờ Quốc Gia vẫn c̣n tồn tại cho đến khi chính vua Duy Tân cũng bị bắt v́ tội tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp rồi bị đày sang đảo Réunion ở Phi Châu cùng với vua cha vào năm 1916.

Ghi chú: Dữ kiện là Cờ Vàng hiện hữu từ 1890-1920 được t́m thấy trên website của World Statemen. Chủ website này là Ben Cahoon, một chuyên gia Mỹ, tốt nghiệp đại học University of Connecticut. Muốn biết thêm về ông, xin vào đây:

<http://www.worldstatesmen.org/AUTHOR.html>

World Statemen là một website khổng lồ, chứa các lịch sử chính trị của hầu hết quốc gia trên thế giới, trong đó có VN. Tài liệu trong website này vô cùng phong phú, khá chính xác về các phần khác của VN, như các triều vua, các đời quan toàn quyền Pháp, v.v.., với sự đóng góp của nhiều giáo sư danh tiếng.

Người viết nghĩ rằng ngoài sự căn cứ vào các tài liệu, các sử gia c̣n cần phải cân nhắc, phân tích các sự tường thuật có khi mâu thuẫn, đối chiếu các biến cố thời sự để t́m ra các dữ kiện hợp lư nhất, với ư hướng rằng việc ǵ cũng có cái nguyên ủy của nó chứ không phải tự nhiên mà có. Lịch sử VN từ ngàn năm trước được viết bởi các sử gia thời hiện đại, mỗi người mỗi khác, và cũng khác với sử kư do người Hoa viết (như bộ Sử Kư Tư Mă Thiên chẳng hạn). Những sử gia thời sau dùng các sử liệu của người thời trước cho công tŕnh nghiên cứu của ḿnh, có khi lại thêm những khám phá mới. Đó là sự phát kiến về lịch sử vậy. Phát kiến (innovation) là t́m ra sự kiện mới dựa trên tài liệu cũ, chứ không phải phát minh (invention), hay bịa đặt sự kiện (fabrication). Các bộ sử của Sử Gia Phạm Văn Sơn viết gần đây nhất, rất dày, có nhiều chi tiết khá lư thú và mới lạ, không hề t́m thấy nơi sách khác, có lẽ đă được viết theo phương pháp "phát kiến" ấy.

Sau khi đối chiếu với các sử sách, bằng vào trí thức và sự chân thành của Ben Cahoon, người viết không nghĩ tác giả website đă bịa đặt ra sự kiện Cờ Vàng đă hiện hữu năm 1890-1920, cũng như Cờ Đại Nam bằng chữ Hán xoay 90 độ nghịch chiều. Hiển nhiên Cahoon đă t́m thấy trong hàng đống tài liệu hay thư khố Pháp và Mỹ hoặc các đại học, nhưng lại không trích dẫn rơ ràng tài liệu nào. Riêng cờ chữ Hán "Đại Nam" th́ ông cũng không trích dẫn xuất xứ và diễn tả là ǵ (có lẽ v́ không hiểu chữ Hán), nên lúc nh́n qua không ai hiểu được là ǵ. Về sau, loay hoay xoay chuyển các chữ Đại và Nam, người viết mới khám phá ra cái thâm ư của tiền nhân triều Nguyễn.

Trong tinh thần tôn trọng các sách sử và các bài viết của các bậc trưởng thượng, mới đầu người viết cũng có sự nghi hoặc về dữ kiện Cờ Vàng hiện hữu từ 1890, v́ không thấy sách Việt sử nào ghi lại chi tiết này. Nhưng về sau th́ người viết thấy dữ kiện ấy rất hữu lư khi đối chiếu với lịch sử vào thời điểm nước ta mới bị Pháp ép kư các Hiệp Ước 1883 và 1884, cắt miền Nam cho Pháp làm thuộc địa. Tiếp theo, Pháp đày ải các vua Thành Thái và Duy Tân, v́ hai vua này chủ trương toàn vẹn lănh thổ. Các sự kiện này rất phù hợp với ư nghĩa của Cờ Vàng.

Trên đây là sự đối chiếu và chọn lọc của người viết để đi đến kết luận là tài liệu của World Statesmen có tính xác thực và khả tín. Tuy nhiên, nếu độc giả không thỏa măn với tài liệu của World Statesmen th́ nên trích dẫn tài liệu phản bác lại.

  4. Cờ Bắc Trung Kỳ trong thời miền Nam thành thuộc địa Pháp

Sau khi hai vua Thành Thái và Duy Tân bị Pháp bắt đày đi Phi Châu, con của vua Đồng Khánh là Khải Định lên ngôi. Giống như cha, Khải Định cũng là một vua bù nh́n và nổi tiếng nịnh Tây. V́ vậy, đến năm 1920 th́ Khải Định tuân lời quan bảo hộ Pháp, xuống chiếu thay đổi Cờ Vàng Quốc Gia tượng trưng cho ba miền thống nhất, thành Cờ Vàng Một Sọc Đỏ, chỉ tượng trưng cho hai miền Bắc và Trung của triều đ́nh Huế mà thôi (c̣n miền Nam th́ trở thành thuộc địa và có "quốc kỳ" riêng).  



   Long Tinh Kỳ (1920 - 10 Mar, 1945)
 
* Nền vàng
  * Một sọc đỏ lớn
  * Biểu tượng cho Bắc và Trung kỳ mà thôi.

  * 10-3-45 là ngày cáo chung của chế độ bảo hộ Pháp

  Lá cờ Vàng Một Sọc Đỏ, cũng được gọi là cờ "Long Tinh", v́ nó biến thể từ Long Tinh Kỳ nguyên thủy trong mấy chục năm đầu của nhà Nguyễn. Nền vàng có h́nh chữ nhật tương tự như quốc kỳ của các quốc gia khác. Chấm đỏ được kéo dài ra thành sọc đỏ ở giữa. Tua xanh không c̣n nữa. Đây là lá cờ biểu hiệu cho một quốc gia chỉ c̣n hai miền Bắc và Trung, thuộc quyền bảo hộ Pháp. Lá cờ này trải qua đời vua Khải Định và tồn tại trong đời vua Bảo Đại, sau khi vua Khải Định băng hà vào năm 1925. Sau khi lên ngôi vào đầu năm 1926 lúc mới 12 tuổi, vua Bảo Đại trao hết quyền cho "Hội Đồng Phụ Chính" với sự chỉ đạo của Toàn Quyền Pháp rồi trở sang Paris tiếp tục học cho đến 1932 mới trở về chấp chính. Lá cờ Long Tinh vẫn được tiếp tục dùng làm biểu tượng của triều đ́nh Huế, lúc bấy giờ chỉ c̣n thẩm quyền cai trị hai miền Bắc và Trung dưới sự bảo hộ của Pháp.

5. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (miền Nam thuộc địa Pháp) (xem tiếp)

trang trước

trở lại