Quốc
Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính
Thống Kỹ
Sư Nguyễn Đ́nh Sài, SQHQ K16 Nha Trang
|
|
Trong khi đó, từ năm 1923,
Nam Kỳ đă chính thức thành thuộc địa
Pháp "Nam Kỳ Quốc", có chính phủ riêng, quân
đội riêng và đă có "quốc kỳ" khác
với Long Tinh Kỳ. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa
có nền vàng, với h́nh cờ Tam Tài của
"mẫu quốc" Pháp nằm trên góc trái, như
h́nh ảnh dưới đây.
Cờ Nam Kỳ Thuộc địa (1923 - Mar 10, 1945) Một ngày sau khi Nhật đảo
chánh Pháp, vua Bảo Đại đăng đàn
tại Huế vào ngày 11-3-45, tuyên bố hủy bỏ
ḥa ước Quư Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, Việt Nam
thống nhất và độc lập, theo chế độ
Quân Chủ tân thời như một số quốc gia
Tây Phương, và ủy nhiệm cho học giả
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. Sau đó,
vua Bảo Đại phân định cho Long Tinh Kỳ
trở lại cương vị của Đế
Kỳ, chỉ treo nơi Hoàng Thành Huế hoặc mang
theo những nơi vua tuần du. Long Tinh Đế
Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc
Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền vàng
đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp
lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương
xứng với cờ Quẻ Ly của chính phủ
Trần Trọng Kim.
Để biểu trưng cho Quốc Gia trong
chế độ Quân Chủ, Bảo Đại kư
sắc lệnh chấp thuận đề nghị
của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy
lại quốc hiệu Việt Nam mà nhà Thanh đă
chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo
ra một quốc kỳ mới. Đó là lá cờ có
nền vàng tương tự như Long Tinh Đế
Kỳ nhưng vạch đỏ được chia làm
ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa th́
đứt khoảng, tương tự như quẻ
Ly, một quẻ trong bát Quái. Không có tài liệu nào ghi lại lời
giải thích của chính học giả Trần
Trọng Kim về ư nghĩa của Cờ "Quẻ
Ly". Tuy nhiên, cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy,
trong bài viết dưới tựa đề
"Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam" đă
giải thích như sau: "Ly là
một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ,
nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ
trụ quan của Việt Nam và Trung Hoa thời trước,
màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng trưng
cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng
trưng cho mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho
nhiệt lực và về mặt xă hội th́ tượng
trưng cho sự văn minh. Về h́nh dạng th́
quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần
Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền,
một vạch đỏ đứt và một vạch
đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện
lên một nền vàng gồm hai vạch liền và
một vạch đứng nối liền hai vạch
ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công. Chữ công
này được dùng trong các từ ngữ công nhơn,
công nghệ để chỉ người thợ và
nghề biến chế các tài nguyên để phục
vụ đời sống con người. Vậy, ngoài
ư nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly c̣n hàm ư
ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự
khéo léo của dân tộc Việt Nam trong các ngành
hoạt động sản xuất kỹ nghệ." C̣n
tài liệu của Cơ Sở Việt Tộc Paris th́
ghi: "Theo Kinh
Dịch (khoa học đông phương nói về
quy-luật biến-hóa của vạn vật) th́
Quẻ Ly thuộc cung Hỏa ở phương Nam. V́
thế nên chữ LY phải mang màu đỏ của
lửa. H́nh-thể lá cờ tượng-trưng cho
lảnh-thổ nên phải là h́nh vuông (trời tṛn
đất vuông); nay biến thành h́nh chữ nhật
cho phù-hợp với quy-ước quốc-tế. V́
vậy nên lá cờ mang quẻ ly đă nói lên
vị-trí của một Quốc-gia ở phương
Nam, tức nước NAM. Nay nước Nam th́ ai làm
chủ? Màu vàng giải trên toàn thể lá cờ mà ngày
xưa gọi là Hoàng Địa, nay ta gọi là
Nền Vàng, có nghiă là dân Việt làm chủ trên
mảnh đất đó."
Mặc dù Cờ Quẻ Ly có ư nghĩa
tốt đẹp, nhưng bị nhiều người
chỉ trích là "lệ thuộc vào kinh dịch,
tức là c̣n nô lệ văn hóa của người Hán",
tương tự như Đại Nam Kỳ bằng Hán
tự trong thời vua Đồng Khánh gần cuối
thế kỷ 19. Hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả
xuống lănh thổ Nhật ngày 6 và 9 tháng 8, 1945 đă
đưa đến hậu quả là Nhật đầu
hàng Đồng Minh vô điều kiện. Hậu
quả này tạo nên một t́nh trạng hỗn độn
chính trị chưa từng có tại Việt Nam
suốt trong tháng 8. Các tổ chức cách mạng liên
tiếp tổ chức những cuộc biểu t́nh giành
độc lập, và chính phủ Trần Trọng Kim
bị xem là "chính phủ thân Nhật", nên không
ai dám hợp tác và Thủ Tướng Trần
Trọng Kim đă phải từ nhiệm. Trong t́nh trạng hỗn độn, Mặt
Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh,
gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, lập ra
"Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" của nước
"Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa", do ông
Hồ Chí Minh lănh đạo. Nhờ khôn lanh mưu lược,
Việt Minh đă tranh thủ được quyền
điều hành đất nước qua những
biến cố sau đây: - Ngày 19-8-45, tại Hà Nội, Việt Minh
tổ chức biểu t́nh trước ṭa Khâm Sứ
và "cướp chính quyền" trước hàng
chục ngàn dân Hà Nội. - Ngày 22-8-45, tại Thuận Hóa, Việt Minh
hạ cờ Ly trước toà hành chánh của chính
phủ Trần Trọng Kim, treo cờ Đỏ
Việt Minh. - Ngày 24-8-45, tại Sài G̣n, Việt Minh
thuyết phục các tổ chức cách mạng nhường
cho Việt Minh quyền "tiếp thu vũ khí
của Nhật", và lập ra "Ủy Ban Hành Chánh
Nam Bộ Lâm Thời". - Ngày 30-8-45, tại Huế, trước sự
chứng kiến của hàng chục ngàn người,
Việt Minh nhận ấn tín của hoàng đế
Bảo Đại trong Lễ Thoái Vị, hạ cờ
Long Tinh xuống, treo cờ Đỏ lên, chấm
dứt chế độ quân chủ Việt Nam. - Ngày 2-9-45, tại quảng trường Ba Đ́nh
Hà Nội, trước sự chứng kiến của
hàng chục ngàn người, ông Hồ Chí Minh đọc
"Tuyên Ngôn Độc Lập" của nước
"Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa" và tŕnh
diện thành phần "Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời", gồm tất cả thành viên là đảng
viên Cộng Sản Đông Dương hoặc tổ
chức ngoại vi của đảng. Riêng ông Hồ
Chí Minh, trước đó không ai biết là nhân
vật nào, cũng đă lộ diện là Nguyễn Ái
Quốc hay Lư Thụy, đảng viên CS. T́nh trạng đất nước sau ngày 2-9-45
có thể được tóm lược như sau: - Ngày 5-9-45, tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh
kư sắc lệnh số 5 hủy bỏ cờ Ly và dùng
cờ Đỏ Việt Minh làm "Quốc
kỳ", chính thức cáo chung sự hiện hữu
của Cờ Quẻ Ly. - Ngày 6-1-46, bầu cử Quốc Hội do chính
phủ Hồ Chí Minh tổ chức, kết quả là
Việt Minh chiếm đại đa số trong
tổng số 356 dân biểu. Tiếp đó, Quốc
Hội nhóm họp khóa đầu tiên ngày 2-3-46 và công
nhận Cờ Đỏ làm Quốc Kỳ. - Ngày 20-2-46, nhân dân Hà Nội biểu t́nh
phản đối kết quả bầu cử có
nhiều bằng cớ gian lận, đả đảo
chính phủ Hồ Chí Minh, yêu cầu cựu hoàng
Bảo Đại ra cầm quyền để kếp
hợp toàn dân. - Ngày 2-3-46, trước áp lực của dân chúng
và trước nguy cơ bị Pháp tái đô hộ,
Hồ Chí Minh lập nội các mới, gọi là
"Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến" với
một số nhân vật thuộc các tổ chức
"cách mạng quốc gia" như Nguyễn
Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tường
Tam, v.v..., và mời cựu hoàng Bảo Đại làm
"Cố Vấn Tối Cao". Được
nửa năm th́ thế "liên hiệp" tan
vỡ với các cuộc đàn áp Việt Nam Quốc
Dân Đảng, bắt đầu công khai kể
từ ngày 12-7-1946. - Trong suốt năm 1946, quân đội
Pháp càng ngày càng chiếm ưu thế trên các
cuộc đụng độ với quân đội
Việt Minh. Đến 20-12-46, Pháp chiếm được
Bắc Bộ Phủ, Hồ Chí Minh tuyên bố rút vào
bưng kháng chiến. Dần dần, Pháp chiếm
đóng và kiểm soát các thành phố, quận
lỵ, và các làng xă đông dân; c̣n Việt Minh th́
đồn trú tại các vùng quê, rừng núi hẻo lánh.
Như vậy, Cờ Đỏ Việt Minh bị xem như
tạm thời mất tư thế "quốc
kỳ" kể từ ngày 20-12-46 là ngày Pháp
chiếm Bắc Bộ Phủ cho đến ngày
20-7-1954 là ngày đất nước chia đôi và
Việt Minh trở lại cầm quyền trên miền
Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên. 9.
Cờ Vàng sọc Xanh của Chính Phủ Lâm Thời
"Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc" Riêng tại miền Nam, kể từ 9-10-45 sau
khi giải giới Nhật, Anh chính thức giao
quyền cho Pháp quản nhiệm hành chánh miền Nam vĩ
tuyến 16. Kế đến Pháp trở cờ, tái
lập "Cộng Đồng Liên Bang Đông Dương".
Ngày 1-6-1946 nước "Cộng Ḥa Nam Kỳ" ra
đời, với nội các Bác Sĩ Nguyễn Văn
Thinh. Lá cờ "Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc" có
nền vàng bao bên ngoài ba sọc xanh ở giữa, chen
giữa ba sọc xanh là hai sọc trắng. Ư nghĩa
của ba sọc xanh là ba phần Việt, Miên, Lào
trong liên bang Đông Dương sống ḥa b́nh
thịnh vượng (màu xanh và trắng). Chế độ
"Nam Kỳ thuộc địa" tồn tại
được 2 năm th́ cáo chung với sự thành
lập Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo
Đại làm Quốc Trưởng kể từ
2-6-1948.
|
|