Quốc Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính Thống

 

Kỹ Sư Nguyễn Đ́nh Sài, SQHQ K16 Nha Trang

 


5. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (miền Nam thuộc địa Pháp)

Trong khi đó, từ năm 1923, Nam Kỳ đă chính thức thành thuộc địa Pháp "Nam Kỳ Quốc", có chính phủ riêng, quân đội riêng và đă có "quốc kỳ" khác với Long Tinh Kỳ. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa có nền vàng, với h́nh cờ Tam Tài của "mẫu quốc" Pháp nằm trên góc trái, như h́nh ảnh dưới đây.  

    Cờ Nam Kỳ Thuộc địa (1923 - Mar 10, 1945)
   * Nền vàng
   * Cờ Tam Tài, màu xanh trắng đỏ nằm trên góc trái.
   * 10-3-45: Nhật đảo chính Pháp

  Cờ này tồn tại đến 10-3-45 th́ cáo chung sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương.

  6. Long Tinh Kỳ trong thời Nhật chiếm Đông Dương, 11 tháng 3, 1945 - Aug1945

Một ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp, vua Bảo Đại đăng đàn tại Huế vào ngày 11-3-45, tuyên bố hủy bỏ ḥa ước Quư Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, Việt Nam thống nhất và độc lập, theo chế độ Quân Chủ tân thời như một số quốc gia Tây Phương, và ủy nhiệm cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. Sau đó, vua Bảo Đại phân định cho Long Tinh Kỳ trở lại cương vị của Đế Kỳ, chỉ treo nơi Hoàng Thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du. Long Tinh Đế Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim.  



   Long Tinh Đế Kỳ (11 Mar - 30 Aug, 1945)
   * Nền vàng, 
   * Sọc đỏ bằng 1/3 cờ.
   * 11-3-45: Bảo Đại tuyên bố VN độc lập, Long Tinh Kỳ trở thành Đế Kỳ

   * 30-8-45: Bảo Đại thoái vị, Đế Kỳ cáo chung

  7. Cờ Quẻ Ly của quốc gia Việt Nam trong thời Nhật chiếm Đông Dương

Để biểu trưng cho Quốc Gia trong chế độ Quân Chủ, Bảo Đại kư sắc lệnh chấp thuận đề nghị của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà nhà Thanh đă chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo ra một quốc kỳ mới. Đó là lá cờ có nền vàng tương tự như Long Tinh Đế Kỳ nhưng vạch đỏ được chia làm ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa th́ đứt khoảng, tương tự như quẻ Ly, một quẻ trong bát Quái.

Không có tài liệu nào ghi lại lời giải thích của chính học giả Trần Trọng Kim về ư nghĩa của Cờ "Quẻ Ly". Tuy nhiên, cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, trong bài viết dưới tựa đề "Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam" đă giải thích như sau:

"Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ, nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xă hội th́ tượng trưng cho sự văn minh. Về h́nh dạng th́ quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công. Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn, công nghệ để chỉ người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục vụ đời sống con người. Vậy, ngoài ư nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly c̣n hàm ư ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ."

C̣n tài liệu của Cơ Sở Việt Tộc Paris th́ ghi:

"Theo Kinh Dịch (khoa học đông phương nói về quy-luật biến-hóa của vạn vật) th́ Quẻ Ly thuộc cung Hỏa ở phương Nam. V́ thế nên chữ LY phải mang màu đỏ của lửa. H́nh-thể lá cờ tượng-trưng cho lảnh-thổ nên phải là h́nh vuông (trời tṛn đất vuông); nay biến thành h́nh chữ nhật cho phù-hợp với quy-ước quốc-tế. V́ vậy nên lá cờ mang quẻ ly đă nói lên vị-trí của một Quốc-gia ở phương Nam, tức nước NAM. Nay nước Nam th́ ai làm chủ? Màu vàng giải trên toàn thể lá cờ mà ngày xưa gọi là Hoàng Địa, nay ta gọi là Nền Vàng, có nghiă là dân Việt làm chủ trên mảnh đất đó."  

 



Cờ Quẻ Ly thời Nhật (11 Mar - 5 Sep, 1945)

* Nền vàng, ba sọc đỏ, sọc giữa đứt khoảng hơi giống h́nh Quẻ Ly
* Quốc kỳ chính thức thời Nhật, đồng thời với Long Tinh Kế Kỳ

  Như vậy, ư nghĩa Cờ Quẻ Ly là sự thống nhất, độc lập cả ba miền thành một khối và theo chế độ quân chủ. Tuy vậy, trên thực tế, chính phủ Trần Trọng Kim chỉ được Nhật trao thẩm quyền điều hành hai miền Bắc và Trung mà thôi. C̣n miền Nam Việt Nam hết lệ thuộc vào Pháp th́ lại lệ thuộc vào Nhật.

Mặc dù Cờ Quẻ Ly có ư nghĩa tốt đẹp, nhưng bị nhiều người chỉ trích là "lệ thuộc vào kinh dịch, tức là c̣n nô lệ văn hóa của người Hán", tương tự như Đại Nam Kỳ bằng Hán tự trong thời vua Đồng Khánh gần cuối thế kỷ 19.

  8. Cờ Đỏ Sao Vàng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa"

Hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống lănh thổ Nhật ngày 6 và 9 tháng 8, 1945 đă đưa đến hậu quả là Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Hậu quả này tạo nên một t́nh trạng hỗn độn chính trị chưa từng có tại Việt Nam suốt trong tháng 8. Các tổ chức cách mạng liên tiếp tổ chức những cuộc biểu t́nh giành độc lập, và chính phủ Trần Trọng Kim bị xem là "chính phủ thân Nhật", nên không ai dám hợp tác và Thủ Tướng Trần Trọng Kim đă phải từ nhiệm.

Trong t́nh trạng hỗn độn, Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, lập ra "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời" của nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa", do ông Hồ Chí Minh lănh đạo. Nhờ khôn lanh mưu lược, Việt Minh đă tranh thủ được quyền điều hành đất nước qua những biến cố sau đây:

- Ngày 19-8-45, tại Hà Nội, Việt Minh tổ chức biểu t́nh trước ṭa Khâm Sứ và "cướp chính quyền" trước hàng chục ngàn dân Hà Nội.

- Ngày 22-8-45, tại Thuận Hóa, Việt Minh hạ cờ Ly trước toà hành chánh của chính phủ Trần Trọng Kim, treo cờ Đỏ Việt Minh.

- Ngày 24-8-45, tại Sài G̣n, Việt Minh thuyết phục các tổ chức cách mạng nhường cho Việt Minh quyền "tiếp thu vũ khí của Nhật", và lập ra "Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Lâm Thời".

- Ngày 30-8-45, tại Huế, trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn người, Việt Minh nhận ấn tín của hoàng đế Bảo Đại trong Lễ Thoái Vị, hạ cờ Long Tinh xuống, treo cờ Đỏ lên, chấm dứt chế độ quân chủ Việt Nam.

- Ngày 2-9-45, tại quảng trường Ba Đ́nh Hà Nội, trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn người, ông Hồ Chí Minh đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập" của nước "Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa" và tŕnh diện thành phần "Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời", gồm tất cả thành viên là đảng viên Cộng Sản Đông Dương hoặc tổ chức ngoại vi của đảng. Riêng ông Hồ Chí Minh, trước đó không ai biết là nhân vật nào, cũng đă lộ diện là Nguyễn Ái Quốc hay Lư Thụy, đảng viên CS.

T́nh trạng đất nước sau ngày 2-9-45 có thể được tóm lược như sau:

- Ngày 5-9-45, tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh kư sắc lệnh số 5 hủy bỏ cờ Ly và dùng cờ Đỏ Việt Minh làm "Quốc kỳ", chính thức cáo chung sự hiện hữu của Cờ Quẻ Ly.

- Ngày 6-1-46, bầu cử Quốc Hội do chính phủ Hồ Chí Minh tổ chức, kết quả là Việt Minh chiếm đại đa số trong tổng số 356 dân biểu. Tiếp đó, Quốc Hội nhóm họp khóa đầu tiên ngày 2-3-46 và công nhận Cờ Đỏ làm Quốc Kỳ.

- Ngày 20-2-46, nhân dân Hà Nội biểu t́nh phản đối kết quả bầu cử có nhiều bằng cớ gian lận, đả đảo chính phủ Hồ Chí Minh, yêu cầu cựu hoàng Bảo Đại ra cầm quyền để kếp hợp toàn dân.

- Ngày 2-3-46, trước áp lực của dân chúng và trước nguy cơ bị Pháp tái đô hộ, Hồ Chí Minh lập nội các mới, gọi là "Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến" với một số nhân vật thuộc các tổ chức "cách mạng quốc gia" như Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tường Tam, v.v..., và mời cựu hoàng Bảo Đại làm "Cố Vấn Tối Cao". Được nửa năm th́ thế "liên hiệp" tan vỡ với các cuộc đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng, bắt đầu công khai kể từ ngày 12-7-1946.

 

- Trong suốt năm 1946, quân đội Pháp càng ngày càng chiếm ưu thế trên các cuộc đụng độ với quân đội Việt Minh. Đến 20-12-46, Pháp chiếm được Bắc Bộ Phủ, Hồ Chí Minh tuyên bố rút vào bưng kháng chiến. Dần dần, Pháp chiếm đóng và kiểm soát các thành phố, quận lỵ, và các làng xă đông dân; c̣n Việt Minh th́ đồn trú tại các vùng quê, rừng núi hẻo lánh. Như vậy, Cờ Đỏ Việt Minh bị xem như tạm thời mất tư thế "quốc kỳ" kể từ ngày 20-12-46 là ngày Pháp chiếm Bắc Bộ Phủ cho đến ngày 20-7-1954 là ngày đất nước chia đôi và Việt Minh trở lại cầm quyền trên miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên.

 

 

9. Cờ Vàng sọc Xanh của Chính Phủ Lâm Thời "Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc"

Riêng tại miền Nam, kể từ 9-10-45 sau khi giải giới Nhật, Anh chính thức giao quyền cho Pháp quản nhiệm hành chánh miền Nam vĩ tuyến 16. Kế đến Pháp trở cờ, tái lập "Cộng Đồng Liên Bang Đông Dương". Ngày 1-6-1946 nước "Cộng Ḥa Nam Kỳ" ra đời, với nội các Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh. Lá cờ "Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc" có nền vàng bao bên ngoài ba sọc xanh ở giữa, chen giữa ba sọc xanh là hai sọc trắng. Ư nghĩa của ba sọc xanh là ba phần Việt, Miên, Lào trong liên bang Đông Dương sống ḥa b́nh thịnh vượng (màu xanh và trắng). Chế độ "Nam Kỳ thuộc địa" tồn tại được 2 năm th́ cáo chung với sự thành lập Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng kể từ 2-6-1948.  



   Cờ Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc (1 Jun, 1946 - 2 Jun, 1948)
   * 1-6-46: Nam Kỳ CH Quốc trong Liên Bang Đông Dương.
   * Nền vàng, ba sọc xanh, hai sọc trắng

   * 2-6-48: Bảo Đại lập Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, thống nhất ba miền.

  10. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của "Việt Nam Quốc" và "Việt Nam Cộng Ḥa" (xem tiếp)

 

trang trước

trở lại