Triết
Lư Củ Khoai |
Bài
của Tôn Thất Phú Sĩ Năm
học Đệ Nhị B (ban Toán), trường Phan châu
Trinh Đà Nẵng, là năm học cuối cùng dưới
mái trường thân yêu, v́ trường không có
lớp Đệ Nhất, cuối năm thi Tú Tài 1 xong
phải chuyển ra Huế học Quốc Học, trường
Phan châu Trinh nơi mà tôi đă trải qua một
thời niên thiếu đầy mùi vị, cay đắng,
mặn ngọt, học hành, nghịch
ngợm, lăng mạng yêu đương, mơ mộng
một cuộc đời giang hồ phiêu bạt,
thứ ǵ cũng giơi, ở nhà ba mẹ la rầy nhưng
có miềm vui v́ tôi chưa biết thi hỏng
trong cuộc đời đi học, ở nhà trường
Thầy Cô xem như con ngựa chướng, được
thầy Hiệu Trưởng thường gọi lên văn
pḥng để răn đe, đôi lúc gọi tên dưới
cột cờ sau buổi lễ chào Quốc Kỳ sáng
thứ hai để nghe tôi hứa "em xin chừa
" không bao giờ tái phạm , vừa bị
thầy cô gọi là học tṛ xấu,th́ ngay ngày hôm
sau tôi được làm chemise môn thi đệ
nhất hay đệ nhị lục cá nguyệt, khen chê
trộn lẫn như chất bột trộn
với đường để làm nên món chè Ngă Năm,
món kem ba màu Diệp Hải Dung thi vị hoá đời
học sinh của tôi dưới mái trường
nhỏ bé, thân thương mà suốt cuộc đời
mang theo như một hành trang đầy ắp kỷ
niệm cùng với con tàu lênh đênh khắp biển
rộng sông dài. Vào
một buổi sáng trong giờ Việt Văn, Việt
Văn chia làm hai phần: nghị luận luân lư và
nghị luận văn chương. Tôi thích nghị
luận văn chương v́ thích các bài thơ lăng
mạng, trữ t́nh như mối t́nh đầu
chớm nở với cô bé học sau ḿnh 2 lớp, hoàn
toàn không chịu học nghị luận luân lư, khô
khan và buồn tẻ. Một hôm không hiểu động
cơ nào thúc đẩy, cả lớp im lặng
ngồi nghe thầy giảng về Đạo Đức
trong cuộc sống, tôi bỗng dong tay hỏi thầy
: Thưa thầy, Hạnh Phúc là ǵ ? Em không
hiểu . Thầy h́nh như có cảm hứng với
đề tài, thầy giảng thao thao bất
tuyệt, cả lớp chăm chú nghe, mặt mày ngơ
ngáo trông quan trọng và buồn cười làm sao !
Sau đó thầy liền ra bài tập . B́nh
giảng câu: "May thay, ngoài Hạnh Phúc ra, đời
c̣n có cái ǵ khác nữa " . Thế
là cả đám học tṛ cắm cuối làm bài
tập, có đứa c̣n để trọc, có đứa
hỉ mũi chưa sạch, đau khổ b́nh
giải về Hạnh Phúc, cái điều mà chúng chưa
ư thức được, hiểu mập mờ, có
thằng chưa hiểu được danh từ
trừu tượng nầy 1 phần trăm ; hanh phúc
là cái bóng mà con người luôn luôn đuổi theo và
không bao giờ bắt gặp, hạnh phúc như gió
thoảng mây bay, như bóng câu qua cửa sổ v
.vlợi. giảng của thầy với nhiều ví
dụ, chúng tôi mơ màng hiểu rằng hạnh phúc
là cái ǵ xa xăm lắm, ngoài tầm tay với, không
bao giờ t́m được, đó là HẠNH PHÚC.
Sau nầy va chạm với cuộc đời, vào sinh
ra tử với nghề nghiệp, phiêu bồng
khắp đầu non cuối biển, có dịp đọc
Kinh Thánh của Chúa, Kinh điển của Phật và
nhiều triết lư cao xa khác từ Âu sang Á,
Khổng, Lăo, Bà La Môn, kinh Koran, kinh Bahai .Tôi suy
ngẫm, t́m ṭi, rút ra những điều cao siêu, tinh
tuư của mỗi triết gia, và cuối cùng
đă tự t́m ra cho ḿnh một triết lư hoàn
hảo siêu việt nhất, tôi đặt tên cho
triết lư của ḿnh là: TRIẾT LƯ CỦ KHOAI. Nó
đơn sơ mộc mạc như củ khoai ,
rẻ tiền như củ khoai, dễ dàng t́m
thấy như củ khoai, cụ thể và nằm trong
bàn tay ḿnh. Triết lư cao siêu nầy, bao nhiêu tinh tuư
màu nhiệm được đơm gọn
lại trong một câu mà tôi cho là chân lư bất
hụ" Nếu chỉ là một củ khoai thôi th́
lùi trong bếp than hồng, nướng cho thật thơm
mà đớp " . Ngày
mai tôi phải xa Đà Nẵng, xa thành phố thân yêu nơi
tôi được sinh ra và lớn lên trong t́nh yêu
của mẹ cha, của bạn bè, của thầy cô,
của trường lớp, của mối t́nh đầu
câm nín, của những buổi chiều lặng
lẽ theo gót chân em đi học về, con đường
Hùng Vương dài hun hút qua Ty Thuỷ Lâm xuôi về
Chợ Cồn, khi chiếc áo đầm trắng
khuất sau cánh cửa, để lại cho tôi bao
ngẩn ngơ, tôi viết vội trên tờ giấy
học tṛ vừa mới xé từ quyển vỡ
Toán, mượn thơ của Huy Cận gởi về
cô bé cùng trường mà tôi đă vấn vương:
Vậy đó bỗng nhiên mà tôi lớn Thôi giă từ băi biển Mỹ Khê, Non Nước, Sơn Trà, Thanh B́nh, Cầu Vồng, sân vận động Chi Lăng ... giă từ phượng vỹ, ve sầu, me chua, khế ngọt, tôi đi rồi , xin trả lại cho ai một thời hoa mộng của tuổi dại khờ. MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẴNG. Một
buổi sáng của ngày cuối tháng 5/75, tôi đi lang
thang đầu đường Lê Văn Duyệt. Sài
G̣n đổi chủ, tất cả các vật
dụng trong nhà đem ra bày bán hai bên lề đường,
bây giờ là thành phố của nhân dân, của cách
mạng, giai cấp công nhân và nông dân đă làm
chủ đất nước, những anh đạp xích
lô, những chị buôn thúng bán bưng thừa cơ
hội tự nhận ḿnh là cách mạng nằm vùng
mặc sức mà lên mặt, hù doạ mọi người.
Tôi lầm lũi đi, xác th́ c̣n đây nhưng
hồn bay bỗng nơi nào, chợt một người
từ căn nhà đi ra gọi: Phần
tôi sau 4 năm di chuyển từ trại nầy qua
trại khác, ngày về mịt mờ xa thẳm,
mỗi ngày phải đốn tre, chặt gỗ xây thêm
nhà ở, lại làm chuồng nuôi vài ba con heo nhỏ
xíu, hột rau muống được phát ra để
gieo, phá rừng làm rẫy để trồng khoai ḿ,
cải thiện đời sống cho có một chút ít
dinh dưỡng trong những tấm thân gầy c̣m, các
hầm cầu được giữ phân lại
để làm phân xanh tưới rau. Tôi cảm
thấy có cái ǵ khác lạ, trong thời gian cải
tạo, bao giờ kêu án, ḿnh phải lănh bao nhiêu năm
tù, tôi hoàn toàn không suy đoán được tương
lai. Một lần trong khi đào giếng để
lấy nước, tôi chỉ bên kia hàng rào kẽm
gai đầy ḿn và nói với người bạn tù:
"Cứ
xem ngọn đồi kia là nơi chôn chúng ta khi
kiệt sức ĺa đời, bây giờ phải lê
lết cho qua ngày tháng, phải t́m những niềm vui
nho nhỏ mà ta có thể có được để
vui sống, dù sống không niềm tin, không hy vọng
, tội ǵ mà buồn v́ buồn cũng vô ích, không
giải quyết được ǵ !"
Nghe thế, người bạn tù bật khóc, tôi an
ủi và đem triết lư củ khoai ra giảng
giải, từ đó người tù trở thành đệ
tử của tôi. Về sau nhiều người
rất ngạc nhiên v́ thấy hai đứa chúng tôi
vẫn tỉnh bơ, vui vẽ cười đùa như
không phải ở tù, xem đây như nơi tạm
trú, là nơi dừng bước giang hồ, tạm
nghỉ sau một khoảng đời , mặc dù
với ngày tháng đi qua, chúng tôi gầy g̣ v́
thiếu ăn, v́ lao động cực khổ,
sức khoẻ càng ngày càng vơi đi, chúng tôi
vẫn xem những bửa ăn kham khổ là những
bửa yến tiệc cao lương mỹ vị,
những ngày làm việc nhọc nhằn là những
buổi tập thể dục cho thân h́nh được
khoẻ mạnh. Trong lúc lao động trong rừng sâu,
bắt được con nhái bé nhỏ, dấu đem
về trại, tối đến nướng lên thơm
ngậy, xé làm hai, tổ chức một bửa
tiệc thưởng trăng , hai đứa bí mật
dự dạ hội trong đêm , bên một gốc cây
già, gió mát dịu, ánh trăng huyền ảo mông lung
len lơi qua hàng thông rừng như an ủi vỗ
về, thoang thoảng đâu đây tiếng cười
của con thơ, ánh mắt của vợ hiền như
triều mến đứa hai đứa vào một
khoảng trời thơ. Ra
khỏi tù từ giữa năm 80, không biết ḿnh
đă học tập tốt chưa, đă trở thành
con người mới xă hội chủ nghĩa chưa
nhưng tôi cảm thấy thoải mái sống trong
chế độ Cọng sản, b́nh yên trong một
thành phố bị cưỡng bức đổi tên,
xung quanh ḿnh mọi người đều thiếu
thốn cơ cực, đau khổ với cảnh
bị đấu tố, tịch biên tài sản
với những chiến dịch đánh tư sản
mại bản, đi lao động thuỷ lợi,
đi vùng kinh tế moiTơi. cũng cùng chung số
phận nhưng thấp kém hơn v́ chưa có
quyền công dân, cuộc sống vẫn bị
quản chế, mỗi tuần phải tŕnh diện công
an phường một lần để khai báo
hoạt động trong tuần, nhờ triết lư
củ khoai tôi vẫn t́m được hạnh phúc
thường ngày. Hạnh phúc của mỗi buổi sáng
dậy sớm, tập vài động tác thể
dục, uống một chén trà nóng cho ấm ḷng, nghe
lén nho nhỏ đài VOA hay BBC, hạnh phúc khi trao đổi
tin tức quốc tế, quốc nội với
bạn bè, hạnh phúc nhất là những ngày đi công
tác thuỷ lợi, lao động ngoài công trường,
trong những lúc được nghỉ ngơi,
cởi trần mặc quần xà lỏn nằm phơi
nắng, phơi gió hây hây, trăm sự gác qua
một bên, chỉ một ḿnh ta với đất
trời bao la. Tôi lại đem cái triết lư củ
khoai ra truyền bá cho anh em tại công trường
để t́m đệ tử, tại đây tôi đă
hân hoan cho một đệ tử Cọng sản
nhập môn; anh ta là một bộ đội giải
ngũ về làm dân với bao năm gian khổ hy sinh
diệt Mỹ Nguỵ cứu nước. Bây
giờ sau khi giải phóng miền Nam thành công, anh
được thưởng huy chương Dũng sĩ
diệt Mỹ của bác Hồ và được
đưa về làm cán bộ trong công trường
thuỷ lợi nầy với ba tháng lương chưa
mua nỗi chiếc xe đạp cho con, trong lúc các
đồng chí của anh tiếp thu các dinh thự
của Mỹ Nguỵ sống một đời
sống xa hoa phè phởn. Tôi hỏi anh lư do
tại sao? Anh trả lời: Tớ v́ lư do cha mẹ là
điền chủ, tuy bị đấu tố tịch
thu tất cả tài sản nhưng vẫn c̣n cái
gốc là điền chủ nên tớ chưa
được vào Đảng. Từ đó anh theo tôi
học triết lư củ khoai và khen xă hội chủ
nghĩa đem đến cho con người sự lười
biếng vô cùng tận v́ làm nhiều cũng chẳng
được hưởng bao nhiêu. Trong chế độ
nầy, sự làm biếng cũng là một hạnh phúc
nho nhỏ trong tôi, trong anh lính cụ Hồ đệ
tử của tôi. Một
buổi chiều, tôi đạp xe đạp đi
dạo trên đường Hồng thập Tự,
bất ngờ tôi gặp thầy Ṭng, c̣n nỗi vui
mừng, có niềm hạnh phúc nào hơn khi gặp
lại thầy cũ , vẫn nụ cười muôn
thuở, nước da ngâm đen như thuở nào, mái
tóc bồng bềnh, lăng tử, hai thầy tṛ đạp
xe đạp song song, chuyện ngày xưa, chuyện ngày
nay, chuyện ngày mai ,tâm sự suốt
một đoạn đường dài, tôi mời
thầy vào một tiệm ăn nhỏ, hai tô phở
nóng như t́nh thầy tṛ bỗng dưng gặp
lại, hai ly cà phê sữa đá mát rượi như
mái trường Phan châu Trinh thân yêu ngày xưa. Tôi
h́nh dung lại những ngày tháng trước, xa quá
rồi Kỷ niệm lại về quanh tôi, quanh
thầy, h́nh ảnh người thầy tươi vui
sống động, người thầy mặc
quần tây dài ống loa đầu tiên trong cái mode tân
thời của Đà Nẵng, người thầy ham mê
đá bóng, một thời Đực 1, , Đực 2, Tam
Lang, Rạng là thần tượng sân cỏ
của thầy. Có những lần tôi và bạn bè vui
chơi ở Thanh Bồ, chúng tôi không có tiền ăn
cà rem, chợt gặp thầy đi ngang qua, tôi lập
mưu x́ lốp xe đạp, rồi chạy lại
thầy xin tiền vá xe, thầy vui vẽ móc bóp cho
mấy đồng. Lần sau thằng bạn cùng
lớp dùng mưu kế đó để kiếm
tiền ăn quà, thầy biết được la
rầy cho một trận, thằng bạn mặt đỏ
như say rượu, bẽn lẽn cuối đầu.
Tuy vậy, thầy cũng thương t́nh cho mấy
đồng với lời rầy la, lần sau không
được lập mưu như vậy nữa,
xấu lắm, em biết không? T́nh
thầy tṛ lấy ǵ đong cho hết, biết
lấy ǵ gỡ cho ra. Thầy Ṭng! Em ngồi đây
viết về thầy thấy ḷng vui theo ánh nắng
chan hoà, vài nụ hoa vừa chớm nở, tiếng
chim ríu rít trong mảnh vườn nhà em, hạnh phúc
lan tràn trong ánh mắt, trên môi miệng, trong trái tim không
chịu già theo với tuổi đời phôi pha
những ngày cuối đông lạnh lẽo tiếp
nối những ngày đầu xuân ấm áp của
đất trời Paris, em nhớ về thấy
với hạnh phúc đó. Ngày
mai lại đi, tôi đă nhận lời lái một
chiếc ghe chở người vượt biên,
chiều nay đi trên con đường Trương
minh Giảng để nh́n lần cuối khu phố
đă một thời thân quen với tôi, đi ngang qua
khu Đại Học VẠN HẠNH, tôi chợt nh́n
một dáng ai quen quen trong hành lang Đại Học, h́nh
như người đó cũng nh́n ra tôi, kẻ
chạy vào, người chạy ra, tay bắt mặt
mừng sau một phút ngập ngừng, bỡ
ngỡ... Sĩ ,Thầy Phạm văn Ấm.
Hai tiếng gọi, hai nỗi ḷng như nhập
một. Thầy bảo: Chúng ḿnh vào quán cà phê bên
cạnh nói chuyện. Tôi bao, tôi bao anh. "Vào
phút chót nó không đi". Thế là ḿnh tôi
trách nhiệm suốt hải tŕnh, chủ ghe lo
phần máy. Tôi mở gói đựng dụng cụ
hải hành ra: một đèn pin, một ống ḍm,
một la bàn và một hải đồ. Tôi yên chí nhưng
nh́n kỹ lại không phải là hải đồ mà
là một bản đồ Sài G̣n Chợ Lớn. Tôi
hỏi chủ ghe và được trả lời:
" Bọn nó đưa lộn bản đồ
rồi " .-Không sao! Không
khí trong lành của biển, ngọn gió ban mai thổi
mát ḷng, tôi cảm thấy vui, trong đêm tối theo
cḥm sao Bắc Đẩu lung linh, tiếng sóng rào rạt
rủ tôi về với trời đất bao la,
với bờ bến mộng ngày xưa. Tôi đưa
chiếc ghe đi xuôi theo ḍng nước, thuỷ
triều bắt đầu rút xuống, hạnh phúc
trong tôi dâng lên. Rạng đông, mặt trời to tṛn
bắt đầu mĩm cười với người
thuỷ thủ trở về với biển khơi, tôi
qua được mạng lưới tuần duyên
của Công an biên pḥng. Ghe vào hải phận
quốc tế, thản nhiên trên đường đào
thoát, không lo âu, để trí óc ḿnh sáng suốt
đi đúng lộ tŕnh, tự nhũ, ḿnh có cái ǵ
phải lo, bị bắt th́ tù lại, ở tù cũng
có ngày ra tù, ra tù lại vượt biên, chỉ
vậy thôi. Như kẻ ham chơi, thuyền vượt
sóng ra khơi như đi du lịch, Tự do
ơi! Tự do! Trước
mặt tôi chân trời rộng, tôi đem triết lư
củ khoai ra t́m đất sống, dù chết cũng
vui, c̣n hơn những người tù chết trong tay
Cọng sản. Tôi không biết cảm ơn ai, cho tôi
cảm ơn tất cả, kể cả những người
Cọng sản đă đày đoạ tôi suốt
gần 7 năm dài, tôi đă thật sự đi t́m
TỰ DO, điều mà tôi quyết tâm từ ngày
vừa mới ra tù. Sau bốn ngày lênh đênh, trời yên biển lặng, hải tŕnh tôi đi không lệch một độ. Cái la bàn không xài được nhưng không sao . Tôi đưa ghe vào giữa hải tŕnh của các thương thuyền xuôi ngược, mong là không gặp tàu Liên Sô hay Trung Cong...,tôi bắt đầu thấm mệt sau 4 ngày đêm cầm tay lái. Chiều nay gió đổi hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc, những đám mây bạc cuối chân trời đă bắt đầu đổi màu xám, mọi người đă nằm im không c̣n nghe tiếng đọc kinh cầu nguyện. Con tàu lặng thinh chỉ c̣n gió và sóng biển lao xao, tôi thầm nghĩ, đêm nay có băo và con thuyền sẽ đi về đâu? Trời đă bắt đầu tối, một chút ánh trăng c̣n sót lại của những ngày gần cuối tháng , đủ soi đường cho con tàu tôi đi. Ghe
cứ lầm lũi theo chiều gió, gió càng lúc càng
mạnh, sóng đă phủ mũi ghe, tôi gh́ tay lái và
bắt đầu cảm thấy chơi vơi ,
sức người, sức ghe như thế nầy làm
sao chống chỏi với trời biển. Chợt
từ xa, xa tít trong bóng đêm có chút ánh sáng,
niềm hy vọng len lỏi trong tôi, ánh đèn đài
chỉ huy đă hiện rơ. Tôi chạy hết tốc
lực về phía con tàu, dùng đèn pin để xin
cấp cứu, ánh đèn yếu quá nên không nhận
được. Một khoảng thời gian qua, tôi
đă nhận được tín hiệu con tàu,
một chiếc tàu buôn của Pháp xử dụng
truyền tin bằng ánh đèn, cho tôi biết đă
nh́n thấy rơ chúng tôi và cần ǵ, có hiểu
được tín hiệu qua ánh đèn hay không? |