Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Chương
3-2 Lê Quế Lâm |
Hồ Chí Minh du
nhập chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam Ngày
12/7/1940, từ Trung
Quốc, Nguyễn
Ái Quốc có bản “Báo cáo của Việt Nam
gửi Quốc tế Cộng sản”, trong đoạn
cuối có nội dung như sau: “Lực lượng
của Đảng c̣n quá yếu. Như trên đă nói,
một đảng mới mười tuổi lại
trải qua hai lần khủng bố lớn, số cán
bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện c̣n đang
rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và
quần chúng như “rắn mất đầu” không
thể tận dụng cơ hội tốt “ngh́n năm
có một”.Chúng tôi nhất định không thể
từ trong đánh ra, chúng tôi chỉ có cách từ ngoài
đánh vào. Nếu chúng tôi có được: (1)
Tự do hành động ở biên giới, (2) Một ít
súng đạn, (3) Một chút kinh phí, (4) Vài vị
cố vấn, th́ chúng tôi nhất định có
thể lập ra và phát triển một căn cứ
địa chống Pháp, chống Nhật -đó là hy
vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể
mở rộng Mặt trận thống nhất các dân
tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc th́
tiền đồ tươi sáng là có thể nh́n
thấy được. Tôi rất hy vọng các đồng
chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề
này”. (16) Đó
là tiền đề cho các hoạt động trong tương
lai của Nguyễn Ái Quốc. Khi Anh Mỹ Nga sắp h́nh
thành mặt trận Đồng minh chống Phát xít, ông
triệu tập Hội nghị Trung ương đảng
Cộng sản Đông dương lần thứ 8ở
Pắc Pó Cao Bằng từ 12 đến 19/5/1941. Ông
nhận định phe Đồng minh sẽ thắng
trận và "nếu chiến tranh đế quốc
lần trước đă đẻ ra Liên Xô -một nước
xă hội chủ nghĩa, th́ chiến tranh đế
quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước
xă hội chủ nghĩa. Cách mạng Đông Dương
là một bộ phận của Cách mạng thế
giới và lúc đó là một bộ phận của
phong trào chống Phát xít. Vận mạng của các dân
tộc Đông Dương gắn liền với
vận mạng của Liên Xô đồng thời cũng
gắn liền với Cách mạng Trung Quốc". Ông
chỉ thị việc thành lập căn cứ địa
dựa vào nông thôn để xây dựng lực lượng
sẵn sàng cướp chính quyền khi Đồng minh
thắng trận. Theo
sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị
Trung ương 8 quyết định thành lập
Mặt trận Việt Minh là tên gọi tắt của “Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội”
nhằm mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp và phát xít
Nhật. Hội gồm các thành viên là Đảng
Cộng sản Đông Dương và các hội cứu
quốc của các tổ chức công nhân, nông dân,
thanh niên, phụ nữ, phụ lăo, Phật giáo, nhi
đồng, v.v. (17) Ngày 19/5/1941 Nguyễn Ái
Quốc ra lời kêu gọi: "Giải phóng dân
tộc cố nhiên không phải là công việc riêng
của giai cấp công nhân cũng không phải là công
việc riêng của công nhân và nông dân mà là công
việc chung của toàn thể nhân dân, toàn thể dân
tộc. Lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn
hết thảy, quyền lợi của một bộ
phận phải phục tùng quyền lợi của toàn
thể dân tộc, quyền lợi của một giai
cấp phải đứng sau quyền lợi của nhân
dân. Mặt trận Việt Minh chủ trương đoàn
kết toàn thể dân tộc hoàn thành nhiệm vụ
giải phóng trước, những ǵ đề ra có
hại cho việc đại đoàn kết dân tộc
th́ phải gác lại hoặc bỏ đi". Để
hô hào dân chúng tham gia Mặt trận Việt Minh,
nửa tháng sau khi hội nghị Pác Pó bế mạc,
Nguyễn Ái Quốc kêu gọi "toàn dân đoàn
kết đặt quyền lợi dân tộc lên trên
hết để tập trung lực lượng đánh
đuổi Pháp Nhật giành độc lập tự
do. Giờ đây công cuộc giải phóng là cao hơn
tất cả! Chúng ta phải đoàn kết lại
đánh đuổi Pháp Nhật và tay sai của chúng
để cứu nước ta khỏi ṿng nước
sôi lửa bỏng". (18) Bức thư
này đă tác động sâu sắc đến tinh
thần dân tộc và ḷng yêu nước của các
từng lớp nhân dân. Đối với một dân
tộc mất nước đă có sẵn bầu
nhiệt huyết nên bất cứ ai đứng ra lănh
đạo cứu nước là họ tán thành và hăng
hái tham gia, trong đó có rất nhiều địa
chủ, trí thức và thanh niên xuất thân từ các
gia đ́nh đó. Ngày
13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc mang tên Hồ Chí Minh sang
Trung Quốc với danh nghĩa đại diện
của Việt Minh và Hội Quốc tế phản xâm
lược Việt Nam do ông vừa sáng lập để
tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân
Quốc. Đây là lần đầu tiên ông mang tên
Hồ Chí Minh. Vũ Anh sau này là Thứ trưởng
Bộ công nghiệp nhẹ, kể lại trong tập
hồi kư “Đầu nguồn” như sau: “Vào
khoảng cuối tháng 6/1942 tại Bắc Pó tôi
được giao nhiệm vụ chuẩn bị hành
trang cho Người và ông Lê Quảng Ba đi Trùng Khánh
(Trung Quốc). Ngoài quần áo, tiền đi đường,
tôi c̣n chuẩn bị cho người những giấy
tờ cần thiết theo chỉ dẫn: -Danh thiếp
mang tên Hồ Chí Minh, dưới tên là hàng chữ “Phân
hội Việt Nam Hội quốc tế chống xâm lược”.
–Danh thiếp mang tên Hồ Chí Minh dưới tên hàng
chữ “Kư giả Thông tấn xă Quốc tế”,
-Giấy giới thiệu của Việt Nam Độc
lập Đồng minh hội (Việt Minh) và giấy
giới thiệu của “Phân hội Việt Nam
quốc tế chống xâm lược”. (19) V́
những hoạt động có liên quan đến Đảng
Cộng sản Trung Quốc, Hồ Chí Minh bị mật
vụ của Tưởng Giới Thạch bắt
giữ từ ngày 29/8/1942 đến tháng 10/1943.
Được tin này, “Hội Quốc tế chống
xâm lược ở Đông Dương” gởi thư
đến đại sứ Mỹ tại Trung Quốc và
Thống chế Tưởng Giới Thạch đề
nghị can thiệp trả tự do cho Hồ Chí Minh.
Đồng thời đại diện của Đảng
CS Trung Quốc ở Trùng Khánh đă tiếp xúc bí
mật với các sĩ quan OSS (Cơ quan t́nh báo
chiến lược Mỹ) để gợi ư rằng
việc này có thể khiến Hồ Chí Minh hợp tác
với phe Đồng minh. Sau khi thảo luận với
đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc; OSS và cơ
quan ngoại giao Mỹ thương lượng với
chính phủ Trung Hoa Dân Quốc để giải thoát
Hồ Chí Minh khỏi nhà tù. (20) Hồ Chí
Minh được trả tự do ngày 10/9/1943. Lúc
bấy giờ, Nguyễn Hải Thần, đang lănh
đạo Việt Nam Cách mạng Đồng minh
Hội -một tổ chức được chính
phủ Trùng Khánh ủng hộ nhằm thống nhứt
các lực lượng Cách mạng Việt Nam đang
hoạt động ở Trung Quốc, ông đă can
thiệp với tướng Trương Phát Khuê -Tư
lịnh Quân khu 4 của Trung Hoa Quốc dân Đảng
ở Hoa Nam, xin phóng thích Hồ Chí Minh để ông ta
và tổ chức Việt Minh gia nhập Mặt trận
Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Tháng
11/1943, tổng thống Mỹ Roosevelt và thủ tướng
Anh Churchill đến Le Caire (Ai Cập) hội đàm
với Tưởng Giới Thạch. Cả ba lănh
tụ đồng minh đều quyết tâm chiến
đấu đuổi Nhật ra khỏi các lănh thổ
bị xăm lăng. Họ đồng ư đặt
Đông Dương dưới ảnh hưởng
của Trung Hoa, Tiêu Văn liền xúc tiến gấp
việc h́nh thành một chính phủ Việt Nam lưu
vong rập khuôn các chính phủ lưu vong bên Âu Châu
thời bấy giờ. Tiêu Văn là Chủ nhiệm Chính
trị Quân khu 4 của tướng Trương Phát Khuê,
đang chỉ đạo "Việt Nam Cách
mạng thất" của Trung Hoa Quốc dân Đảng.
Y được chính phủ Trùng Khánh chỉ định
phụ trách việc sắp xếp chế độ chính
trị tại miền Bắc Việt Nam sau khi Nhật
đầu hàng. (21) Cuối
tháng 3/l944, đại biểu các đảng phái, đoàn
thể chống Pháp Nhật như Việt Cách, Việt
Minh, Việt Quốc, Đại Việt, Hội Giải
phóng Việt Nam, Việt Nam Giải phóng Đồng minh
hội... tham dự Hội nghị Liễu Châu và
bầu ra Chính phủ Cộng ḥa Việt Nam Lâm
thời do Trương Bội Công làm Chủ
tịch và các ủy viên là Nguyễn Hải Thần,
Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh, Bồ Xuân Luật, Tùng
Sơn, Nghiêm Kế Tổ. Hội nghị kêu gọi
đồng bào trong ngoài nước đứng lên
chống Pháp Nhật, thu hồi nền độc
lập của nước nhà với sự giúp đỡ
của Trung Hoa Quốc dân Đảng. Trong
hội nghị này, mọi yếu nhân của các đảng
phái Quốc gia đều làm ngơ, họ không
biết nhân cơ hội đó để phát triển
cơ sở và lợi dụng thế Đồng minh phái
cán bộ về nội địa phối hợp
hoạt động với các đồng chí trong nước,
chỉ có Hồ Chí Minh giơ tay xin xung phong. Ông
liền được cấp đầy đủ
giấy tờ và công tác phí là 20 vạn quốc tệ
với 20 thanh niên cán bộ do chính ông tự ư lựa
chọn. (22) Dựa vào chiêu bài này Hồ
Chí Minh c̣n đề nghị Trương Phát Khuê tài
trợ và vũ trang để ông tổ chức lực
lượng chống phá Nhật ở vùng biên giới
Hoa Việt. Trương Phát Khuê đồng ư cấp
cho ông mỗi tháng 5 vạn đồng quan kim để
hoạt động. Nhờ sự tài trợ này, Hồ
Chí Minh cho cán bộ về nước xây dựng cơ
sở, vừa dùng du kích khuấy rối Nhật,
vừa thu thập tin tức t́nh báo cung cấp cho Đồng
minh, vừa tổ chức các đoàn thể cứu
quốc và tuyên truyền cho Mặt trận Việt Minh. Cuối
năm 1944, một máy bay của Mỹ bị quân
Nhật bắn hỏng máy ở không phận tỉnh
Cao Bằng, viên trung úy phi công tên Shaw nhảy dù
xuống một khu rừng gần tỉnh lỵ
được du kích Việt Minh cứu thoát và
đưa về gặp Hồ Chí Minh. Ông quyết định
đưa viên sĩ quan phi công sang Côn Minh trao trả cho
quân Mỹ ở đây, để chứng tỏ
lực lượng Việt Minh đứng về phe
Đồng minh chống phát xít. Ngày
17/3/1945 ông Hồ đă tiếp xúc với trung úy Charles
Fenn thuộc Cơ quan cứu trợ không quân Mỹ
(AGAS), là nhân viên trực tiếp điều khiển nhóm
t́nh báo của Đồng minh đang hoạt động
ở Việt Nam. Ông Hồ tŕnh bày với Fenn: “Chúng
tôi là mặt trận Việt Minh có chiến khu, có quân
đội, đứng bên cạnh Đồng minh
chống phát xít. Quân đội chúng tôi c̣n rất
nhỏ bé, chỉ có mấy thanh mă tấu và súng kíp.
Nếu bây giờ các bạn giúp chúng tôi đổi
những thứ ấy thành súng đạn th́ quư
biết mấy”. Trong thời gian ở đây ông
Hồ thường đến Cơ quan thông tin
chiến tranh Mỹ (AOWI) để thu thập những
thông tin cần thiết, đặc biệt là những
tin tức chiến sự trên thế giới. Ngày
29/3/1945 tướng Claire Lee Chennault chỉ huy Không đoàn
14 Mỹ đă gặp Hồ Chí Minh để bày
tỏ sự biết ơn đă cứu viên phi công
Mỹ. Ông Hồ cho biết ông rất vui ḷng giúp người
Mỹ và nói thẳng “Hiện nay phong trào du kích
của chúng tôi rất phát triển nhưng vũ khí,
thuốc men đều thiếu thốn. Chúng tôi đề
nghị quư ông tạo điều kiện để hai
nước chúng ta có đầy đủ điều
kiện mau chóng đánh bại phát xít Nhật”.
Chennault ủng hộ ư kiến này và tặng ông Hồ
6 khẩu súng ngắn, 20 ngàn viên đạn và một
số thuốc men. Ngày
10/4/1945, ông Hồ rời Côn Minh đến Quảng Tây
gặp Trương Phát Khuê -Tư lịnh Quân khu IV
của Trung hoa Quốc Dân Đảng, xin một số
học viên Việt Nam vừa tốt nghiệp trường
quân sự về nước để tăng cường
lực lượng kháng chiến chống Nhật. Đề
nghị này cũng được Trương Phát Khuê
đồng ư. Ngày 27/4/1945 Hồ Chí Minh đă gặp
thiếu tá A. Patti thuộc cơ quan T́nh báo chiến lược
Mỹ (OSS) ở Tỉnh Tây. Nhờ
tiếp xúc với Cơ quan thông tin chiến tranh Mỹ
AOWI, Hồ Chí Minh biết được cuộc
chiến thế giới sắp đi vào giai đoạn
kết thúc, nên ông cấp tốc về nước
chuẩn bị kế hoạch giành chính quyền. Cũng
trong thời gian này Tổng hành dinh Đồng minh
ở Hoa Nam của Tưởng Giới Thạch mời
Tổng bộ Việt Minh sang Trung Quốc để bàn
việc giúp các đảng phái Việt Nam chống
Nhật. Hoàng Quốc Việt và đoàn đại
biểu Việt Minh đă đến Quảng Tây
tiếp xúc với chính phủ Tưởng Giới
Thạch và các tổ chức cách mạng Việt Nam như
Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh
hội) và Việt Quốc (Việt Nam Quốc Dân Đảng). Ông
Hồ Chí Minh biết được quyết định
của Đồng minh tại hội nghị Yalta
(4-11/2/1945) cho phép quân Tưởng Giới Thạch vào
Bắc vĩ tuyến 16 giải giới Nhật, nên ông
chỉ thị phái đoàn Việt Minh t́m cách mau về
nước để cướp chính quyền trước
khi quân Đồng minh vào Việt Nam. Trong khi các ủy
viên trong Chính phủ Cộng ḥa Việt Nam lâm thời
đang sống phè phỡn ở Quảng Tây và Vân Nam,
họ trông chờ quân Trung Hoa vào giải giới
Nhật sẽ yểm trợ họ giành chính quyền
từ tay Nhật, th́ Hồ Chí Minh nhận định
rằng ai có mặt trước sẽ giành được
phần thắng. Tuyên ngôn của Mặt
trận Việt Minh xác định rằng: "Việc
giải phóng của ta phải do ta làm lấy. Vận
mạng Việt Nam sẽ do người Việt Nam
quyết định ngay tại đất Việt Nam,
chớ không ỷ lại vào sự chi viện trực
tiếp nào từ bên ngoài". (23) Đầu
năm 1945, Nhật sợ quân Đồng minh đổ
bộ lên Đông Dương, quân Pháp sẽ làm
nội ứng để khôi phục quyền thống
trị ở đây nên vội vàng hành động
trước. Ngày 9/3/1945 Sứ thần Nhật Matsumoto
gởi tối hậu thư cho Toàn
quyền Decoux ở Sàig̣n đ̣i Pháp đem tất
cả lực lượng quân sự đặt
dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư
lịnh tối cao Nhật. Pháp từ chối, ngay đêm
đó Nhật đánh úp các cơ sở quân sự Pháp
và làm chủ t́nh h́nh khắp nơi. Hôm sau Đại
sứ Nhật Yokohama đến Điện Kiến Trung
(Huế) yết kiến vua Bảo Đại, và thông báo
việc trao trả độc lập cho Việt Nam. Ông
yêu cầu Việt Nam hợp tác với Nhật trong công
cuộc xây dựng khối Thịnh vượng
chung Đại Đông Á. Ngày
11/3, Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ các
hiệp ước kư kết giữa Pháp và Việt Nam
mà triều đ́nh Huế bị Pháp cưỡng bách
phải kư. Bảo Đại nhờ người
Nhật t́m Ngô Đ́nh Diệm để lập chính
phủ, nhưng h́nh như Nhật không đồng ư nên
họ nêu lư do không t́m được Diệm. Một
tháng sau, Bảo Đại yêu cầu Trần Trọng
Kim đảm nhận trọng trách v́ quốc gia dân
tộc, thành lập nội các. Trần Trọng Kim là học giả và sử gia
chưa từng làm chính trị, đă nghĩ hưu sau
31 năm dạy học, vào thời điểm quân
Nhật đưa quân vào Đông Dương (1943).
Cụ nhận định “Người dân Việt
Nam bị thực dân Pháp đè nén trong sáu bảy mươi
năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội này, gây
dựng lại nền độc lập cho đất nước. Nhật
là một nước Á Đông, nhưng đă theo Âu hóa,
cũng theo gương các nước Âu Châu mở
rộng chủ nghĩa đế quốc. Họ đă
thôn tính Cao Ly và Măn Châu, sau đó xâm lược nước
Tàu và các nước khác ở Á Đông đă bị
các nước Âu Châu chiếm làm thuộc địa.
Người Nhật cũng thực hiện chính sách bá
đạo như các đế quốc khác. Họ dùng
lời nói nhân nghĩa và lợi dụng ḷng ái
quốc của người Việt để quyến
dụ. Người Việt hiểu được
cái tâm địa của Nhật, song có nhiều người
muốn thừa cơ hội này để tạo ra cái
không khí mới, rồi sau thế nào cũng t́m cách
đối phó. Phần nhiều trí thức đều có
quan niệm ấy, nhưng không có thế lực, nên không
hành động ǵ cả, trừ một số người
hoặc v́ ḷng nóng nảy, hoặc v́ ḷng ham danh
lợi chạy theo người Nhật”. Trong hoàn cảnh
phức tạp đó, Trần Trong Kim muốn ngồi yên
nhưng vẫn không yên. Hết người này đến
người khác đến bàn chuyện lập hội
này hội nọ. Cụ ngao ngán nhận xét “Đảng
với hội ǵ mà tinh thần không có, sự tổ
chức chẳng đâu ra đâu, càng nhiều đảng
nhiều hội th́ càng thêm rối việc, chớ có
ích ǵ?” Có vài người Nhật tự xưng là
giáo sư ở Đông Kinh sang nghiên cứu về văn
hóa, thường t́m đến cụ hỏi về
lịch sử và tôn giáo. Họ không nói đến chính
trị, nhưng mục đích là ḍ xét t́nh ư những
nhân sĩ trong nước. V́ vậy cụ chỉ nói
về văn hóa, nhưng sự đi lại của người
Nhật làm cho Pháp để ư đến cụ, đă
có nhiều người bị bắt v́ giao thiệp
với người Nhật. Buổi chiều ngày
27/10/1943 có mấy hiến binh Nhật và một người
Nhật quen từ trước đến nhà cụ, báo
tin hai người bạn của cụ vừa bị Pháp
bắt và khuyên cụ nên vào trụ sở hiến binh
Nhật lánh nạn. Cụ từ chối, nhưng khi nh́n
ra cửa thấy hai người giống như mật
thám Pháp đứng ở ngoài ḍm vào. Cụ nghĩ
bụng: “ta hăy lánh đi một đêm cũng không
sao” nên nhận lời sang ngủ bên nhà người
Nhật quen. Sáng hôm sau Hiến binh Nhật đem xe
đến, bảo có lệnh đón cụ về ở
khách sạn của nhà binh Nhật. Đến khách
sạn, cụ gặp lại người bạn cũ là
Dương Bá Trạc (1884-1944) đă hợp tác với
cụ soạn bộ Việt-Nam Tự điển cho
hội Khai trí Tiến đức. Cụ Dương
đỗ Cử nhân năm 16 tuổi (khoa Canh Tư năm
1900) cùng các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng. Cụ Dương đă cùng các bạn
Nguyễn Quyền, Lê Đại, Lương Văn Can
lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm
1907 nên bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo và
bị cưỡng bách cư trú mấy năm ở Nam
Kỳ. Nay hai cụ gặp nhau trong hoàn cảnh khó khăn,
dù được Nhật cho về nhà, Pháp cũng
chẳng để yên. Do đó hai cụ yêu cầu
Nhật đưa ra khỏi nước để
gặp Hoàng thân Cường Để là người
đă được chính phủ Nhật giúp đỡ.
Hai cụ c̣n trù tính nhờ Nhật dàn xếp
đưa Ngô Đ́nh Diệm và Huỳnh Thúc Kháng
xuất ngoại v́ hai ông này đă được Cường
Để ủy quyền tổ chức mọi việc. Cuối năm 1943,
Bộ Tư lịnh quân Nhật ở Sàig̣n báo cho
biết, họ sẽ đưa hai cụ đến Chiêu
Nam Đảo (Singapore) “là nơi yên ổn hơn
cả, ông Cường Để cũng sắp đến
đấy cùng các người khác nữa sẽ
họp nhau làm việc, rất là thuận tiện”.
Hai cụ sống ở Singapore gần một năm nhưng
chẳng thấy Cường Để. Cuối năm
1944 có lệnh bên Đông Dương đưa hai
cụ đi Băng Cốc (Thái Lan), lúc đó cụ Dương
lâm trọng bịnh và qua đời (10/12/1944) nên đến
giữa tháng Giêng 1945 Trần Trọng Kim mới lên
đường đi Băng Cốc bằng xe lửa.
Ngày 10/3 cụ được tin Nhật đă đảo
chánh Pháp ở Đông Dương. Ngày 29/3 Nhật
đưa máy bay sang Băng Cốc đón cụ về
Sàig̣n. Về đến Sàig̣n,
cụ được Bộ Tư lịnh Nhật báo
cho biết: Phạm Quỳnh và các thượng thư cũ
đă từ chức. Vua Bảo Đại điện
mời cụ và các ông Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc
Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hăn, Cao Xuân Cẩm
về Huế để hỏi ư kiến. Cụ lấy
làm lạ, tại sao có tên cụ mà không có tên Ngô
Đ́nh Diệm. nên nói với Nhật: “Tôi không có
hoạt động ǵ và cũng không có phe đảng
nào cả. Gọi tôi vể Huế không có ích lợi ǵ.
Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc”.
Viên tướng Nhật trả lời “Đó là ư
của vua Bào Đại muốn hỏi ông về viêc
lập chính phủ mới, ông cứ ra Huế rồi
sẽ biết”. Trong thời gian ở
Sàig̣n lần đầu tiên cụ gặp Ngô Đ́nh
Diệm. Ông Diệm hỏi cụ: “Cụ mới
về đây, cụ có biết tin ǵ không?” Cụ
đáp: “Người Nhật lạ quá họ
chẳng cho chúng tôi biết ǵ cả. Tôi vừa
thấy trong Bộ Tư lịnh nói ở Huế các thượng
thư đă từ chức rồi. Vua Bảo Đại
gọi ông Hoàng Trọng Phu vào bàn việc lập chính
phủ mới”. “Thế à? Sao người
Nhật không cho tôi biết?”. rồi ông
Diệm đứng dậy nói “Tôi phải vào Tư
Lịnh Bộ có chút việc, sáng sớm mai tôi lại
về Vĩnh Long”. Buổi sáng ngày
5/4/1945 Trần Trọng Kim đến Huế được
lănh sự Nhật tại đây là Urabé đón
tiếp khi cụ vừa xuống xe lửa và đưa
cụ đến gặp Yoko-hama, Cố vấn Tối
cao Nhật. Hai hôm sau cụ vào hoàng cung yết kiến
vua Bảo Đại. Nhà vua nói: “Trước kia Pháp
giữ quyền bảo hộ nước ta, nay không
giữ được nước cho ta, để quân
Nhật đánh đổ, vậy những điều
trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu
quả nữa, nên Bộ Thượng thư đă tuyên
hủy hiệp ước ấy. Trẩm phải đứng
vai chủ trương việc nước và lập chính
phủ để đối phó mọi việc”.
Cụ tâu rằng: “Việc lập chính phủ, Ngài
nên dùng người đă đự định từ
trước, như Ngô Đ́nh Diệm chẳng hạn,
để có tổ chức sẳn sàng. Tôi nay phần
th́ già yếu bệnh tật, phần th́ không có đảng
phái và không hoạt động về chính trị, tôi
xin Ngài cho tôi về nghỉ”. Bảo Đại cho
biết đă có điện gọi Ngô Đ́nh Diệm
nhưng sao không thấy về? Cụ trả lời: “Khi
tôi qua Saig̣n, có gặp Ngô Đ́nh Diệm và ông ấy
bảo không thấy người Nhật nói ǵ cả.
Vậy hoặc có ǵ sai lạc chăng, Ngài cho điện
lần nữa gọi ông ấy về. C̣n tôi th́ xin Ngài
cho ra Bắc”. Bảo Đại nói: “Vậy ông
hăy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào th́ hăy ra
Bắc”. Khoảng ba bốn ngày cụ lại đi
hỏi cố vấn tối cao Nhật xem có tin tức
ǵ về ông Diệm chưa? Trước th́ họ nói
chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông
Diệm đau chưa về được. Vua
Bảo Đại thấy t́nh thế kéo dài măi cũng
sốt ruột nên triệu cụ vào nói “Trước
kia người ḿnh chưa độc lập, nay có cơ
hội cũng phải tỏ ra có đủ tư cách
để độc lập. Nếu không có chính
phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất
lực, tất họ lập cách cai trị theo thể
lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông
nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính
phủ để lo việc nước”. Cụ
liền tâu: “Nếu v́ quyền lợi riêng tôi không
dám nhận chức ǵ cả, song Ngài nói v́ nghĩa
vụ đối với nước, th́ dù sao tôi cũng
cố hết sức. Vậy xin Ngài cho tôi vài ngày để
tôi t́m người”. Cụ bàn với Hoàng Xuân Hăn
t́m người xứng đáng làm bộ trưởng
với nguyên tắc: một là phải có đủ
học thức và tư tưởng về chính trị;
hai là phải có đức hạnh chắc chắn
để dân chúng kinh phục. Nội các Trần
Trọng Kim đều là những trí thức tên
tuổi gồm có: - Trần
Trọng Kim, Giáo sư, Nội các Tổng trưởng. -
Trần Đ́nh Nam, Y sĩ, Bộ trưởng Nội
vụ. -
Trần Văn Chương, Luật sư, Bộ trưởng
Ngoại giao. -
Trịnh Đ́nh Thảo, Luật sư, Bộ trưởng
Tư pháp. -
Hoàng Xuân Hăn, Toán học Thạc sĩ, Bộ trưởng
Giáo dục và Mỹ nghệ. -
Vũ Văn Hiền, Luật sư, Bộ trưởng
Tài chánh. -
Phan Anh, Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên. -
Lưu Văn Lang, Kỹ sư, Bộ trưởng Công
chánh. -
Vũ Ngọc Anh, Y khoa bác sĩ, Bộ trưởng Y
tế. -
Hồ Tá Khanh, Y khoa bác sĩ, Bộ trưởng Kinh
tế. -
Nguyễn Hữu Thi, Y sĩ, Bộ trưởng Tiếp
tế. Trần
Trọng Kim đă từng nhận xét “Nhật dùng
những phương pháp quỉ quyệt để
mở rộng chủ nghĩa đế quốc của
họ” và “dùng những lời nhân nghĩa
để nhử người ta vào tṛng của ḿnh mà
thống trị cho đễ, chứ sự thực
chỉ v́ lợi mà thôi, không có ǵ là danh nghĩa
cả”. Cụ đă nhận định như
vậy “thế mà tự đâu nó bắt buộc tôi
làm những việc tôi không muốn làm. H́nh như ngoài
cuộc nhân sinh vật chất của người ta, có
cái thế lực u uẩn, huyền bí, an bài hết
cả mọi việc theo đúng cái nghiệp của
từng người, giống như một tấn
tuồng sắp đem ra diễn, đă có người
xếp đặt đâu đấy cả rồi, ai
đóng vai tṛ nào là phải đóng cho hết tṛ,
chớ không từ chối được”. V́ cái
nghiệp cụ Trần phải làm thủ tướng
và hơn 4 tháng sau cụ khuyên vua Bảo Đại trao
quyền cho Việt Minh. Từ đó cũng v́ cái
nghiệp, Hồ Chí Minh và những người kế
nghiệp ông đều đóng trọn vai tṛ, dù t́nh
thế có những thay đổi lớn trong khoảng
thời gian dài của lịch sử. Chính
phủ Trần Trọng Kim công bố chương tŕnh
gồm ba điểm: "Việc thứ nhất là làm
sao đạt cái hy vọng của quốc dân Việt
Nam khiến cho Việt Nam trở thành một quốc gia
độc lập, khôi phục trạng thái từ xưa
và lo toan cho ngày càng mạnh mẽ toàn vẹn. Việc
thứ hai là lo giải quyết vấn đề
gạo ăn, v́ trước hai vấn đề chính
trị và văn hóa cốt yếu nhất là vấn
đề gạo ăn. Việc thứ ba là kiến
thiết tâm lư dân tộc Việt Nam mà phương pháp
tiến hành trước tiên là phải cải thiện
phương pháp giáo dục, chấn hưng thanh niên,
vận động và t́m cách đè nén những tổ
chức không chính đáng cốt khiến cho tinh
thần quốc gia của nhân dân được
bền vững". Trong
tuyên cáo gởi quốc dân, nội các Trần Trọng
Kim cho biết mục đích mà chính phủ hết
sức theo đuổi là "hợp nhất tất
cả các phần tử quốc dân để củng
cố độc lập của quốc gia và gây
mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai
tầng xă hội". Chính phủ sẽ "xóa
bỏ những h́nh án bất công để những người
ái quốc c̣n bị giam cầm trong lao ngục có
thể tùy tài sức mà tham dự vào công cuộc
kiến thiết quốc gia". Riêng nạn tham nhũng
là cái tệ được dung túng từ trước,
nay nước nhà đă bước vào một kỷ
nguyên mới, nội các Trần Trọng Kim chủ trương
"cần phải trừ cho tiệt" tệ
nạn này. (24) (c̣n
tiếp đoạn chót) |