Viết
về một địa phương là điều
rất khó, viết về quê hương mình lại càng
khó hơn, nhất là đối với những
kẻ đang ngàn trùng cách biệt như chúng ta….Thương
làm sao những kỷ niệm mật ngọt thiết
tha, nhớ làm sao những đắng cay buồn
tủi! Mấy ai trong chúng ta – trong kiếp sống lưu
đày này – lại chẳng hơn một lần
gặm nhấm nỗi xót xa khi nhớ về quê
mẹ thân yêu? Một văn hào Pháp đã viết:
“Có thể nói tạo hóa đã cột chân mọi người
vào nơi chôn nhau cắt rốn bằng một
thứ nam châm vô hình. Điều lạ lùng và cao
cả là ta luyến nhớ cố hương đẹp
hơn cả” đã là đề tựa cho một bài
tập đọc, học thuộc lòng trong sách
Quốc Văn Giáo Khoa Thư của tuổi học trò
ở trường làng thuở ấu thơ.Trong
niềm thương nỗi nhớ, người
viết muốn gợi lại một ít – rất ít
– những hình ảnh, những nét đặc thù
về quê hương mình: tỉnh Quảng Ngãi.Ước
mong sẽ được đọc rất nhiều
những bài viết về tổ quốc Việt Nam
khắp các miền để cùng sưởi ấm lòng
nhau trong kiếp sống ly hương và để –
dù cuộc sống tại xứ người có đầy
đủ, có giàu sang, có sung sướng mấy đi
nữa – quê mẹ vẫn còn mãi mãi trong tim chúng ta.
Dòng
nước cuốn theo bóng mây về đâu?
Lặng
lờ Trà Khúc nước trôi mau vấn vương
qua nhịp cầu…
Đường
đồi lên Thiên Ấn dốc xa xa,
lơ
lửng áng mây vành trên mái chùa xưa im vắng…
Năm
1973, khi Hiệp định Paris bắt đầu có
hiệu lực thì Cộng quân đã vi phạm ngay
bằng cách xua quân chiếm Sa Huỳnh, lãnh thổ
thuộc Việt Nam Cộng Hòa, do đó Sư đoàn
2 bộ binh có dịp ghi thêm một điểm son
trong bộ quân sử khi tập trung toàn lực tái
chiếm Sa Huỳnh và chính đại diện Ba Lan
trong phái đoàn Liên hiệp Quân sự cũng đã
phải xác nhận là cộng sản vi phạm, vùng
đất sỏi cằn cỗi này khoảng 40 năm
gần đây trong lịch sử cũng mang nhiều
chứng tích.
Từ
1945 đến 1954, Quảng Ngãi sống dưới gót
sắt của Việt Minh, còn Quảng Tín (thuở
đó còn thuộc tỉnh Quảng Nam) trở ra
sống dưới chánh quyền Quốc gia nằm
trong khối Liên hiệp Pháp, vì vậy Dốc Sỏi
là vùng tề, đồng bào từ các tỉnh Phú Yên,
Bình Định, Quảng Ngãi thường lén ra “buôn
lậu” nghĩa là mua vải đồng hồ, đá
lửa, thuốc tây, viết mực v.v… về bán
lại.
Cũng
có nhiều người “vượt biên” qua vùng
Quốc gia (Việt Minh gọi là trốn theo Pháp), do
đó địa danh An Tân (tên gọi chung của vùng
ranh giới hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi)
rất nổi tiếng thời bấy giờ, sau năm
1965, eo bể của vùng ranh giới này là một căn
cứ quân sự lớn tên là Chu Lai, nơi đồn
trú của Sư đoàn 23 Hoa Kỳ và sau đó là Quân
Sư đoàn 2 Bộ binh thuộc Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, lúc các anh về dân chúng tụ tập
về đây rất đông và buôn bán rất sầm
uất, phía đông Quảng Ngãi là biển Nam Hải
với chiều dài gần 100km và có năm cửa
biển: Sa Huỳnh, Mỹ Á, Cổ Lũy, Sa Kỳ, Sơn
Trà.
Quân
đoàn II là một đơn vị cấp Quân đoàn,
được tổ chức hỗn hợp gồm
cả Hải – Lục – Không quân, đây là quân
đoàn thành lập thứ nhì và là một trong
bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa, trong thời gian tồn tại
của mình, Quân đoàn II có nhiệm vụ kiểm
soát một vùng lãnh thổ có diện tích rộng
lớn và địa hình phức tạp nhất so
với 3 quân đoàn, gồm 7 tỉnh thuộc khu
vực cao nguyên Trung phần: Kontum, Pleiku, Phú Bổn,
Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng;
5 tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung phần: Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận và Đặc khu Cam Ranh và truy lùng tiêu
diệt các toán việt cộng hay núp lùng trong các dãy
núi cũng như trà trộn vào dân thường.
Các
tướng tư lệnh nổi tiếng từng tham
chiến tại đây gồm ”Tôn Thất Đính-Nguyễn
Khánh-Đỗ Cao Trí-Nguyễn Hữu Có-Vĩnh
Lộc-Ngô Dzu-Nguyễn Văn Toàn-Phạm Văn Phú…”
***
Mời xem tiếp:
Phó
Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ có nguồn gốc ở
Quảng Ngãi

|