Thời
gian không dừng lại, cuộc đời trải qua
bao nỗi thăng trầm. Mỗi độ Xuân
về nơi xứ người làm cho tôi thêm ray
rức. Ở đây làm sao có Xuân để đón.
Khi Mùa Xuân về trên quê hương th́ nơi tôi
định cư là vào mùa Đông. Tuyết trắng
phủ khắp không gian, trời rất lạnh.
Nhiệt độ âm, khoảng - 5 cho đến -15
độ Celcius. Đôi khi, hệ thống lưu thông
có phần tắt nghẽn. Với những phút suy tư
về cuộc đời, về thời cuộc, tôi
ghi lại đôi gịng những cảm nghĩ liên quan
đến những mùa Xuân được ghi dấu
trong tôi.
Mùa
Xuân Kỷ Dậu 1789:
Hôm
nay là ngày mùng 5 tháng giêng năm Quư Tỵ, 2013, đánh
dấu Mùa Xuân Chiến Thắng cách đây 224 năm
nhằm ngày 30 tháng 1 năm 1789 tức là ngày mùng 5 tháng
giêng năm Kỷ Dậu mà toàn dân Việt Nam luôn ghi
nhớ.

Quang Trung Hoàng Đế
Khi vua Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, lúc
đó vua Thanh là Càn Long. Vua Thanh sai Tổng đốc
Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị lấy
cớ pḥ vua Lê Chiêu Thống trở lại Đại
Việt, đem 20 vạn quân qua xâm lăng và chiếm
đóng Thăng Long năm Mậu Thân, 1788. Được
tin đó, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung,
đóng đô ở Phú Xuân, tiến quân ra Bắc Hà.
Trận G̣ Đống Đa, đồn Ngọc
Hồi vào đầu năm 1789 do Hoàng Đế Quang
Trung lănh đạo, chỉ huy khoảng 10 vạn quân
Đại Việt
đánh bại 20 vạn quân Thanh để mang
lại thái b́nh cho đất nước. Đó là mùa
Xuân Chiến Thắng Kỷ Dậu huy hoàng của dân
tộc Việt
Nam
.
Mùa
Xuân Mậu Thân - Tổng
Công Kích Tết
Mậu Thân
1968 tại
Huế:
Khi gia nhập vào quân đội, tôi
mới được nghe những bạn bè ở
Thừa Thiên kể chuyện về Tết Mậu Thân
1968 tại Huế thật khủng khiếp quá.
Với hoà ước ngưng chiến giữa cộng
quân Bắc Việt và quân đội VNCH vào dịp Xuân
về, toàn dân miền
Nam
hân hoan đón mừng Năm Mới. Trong khi mọi người
ăn Tết an vui thái b́nh vào ngày mùng một th́
rạng sáng ngày mùng hai, cộng quân phản bội hoà
ước, bắt đầu tổng tấn công vào
nhiều thành phố và xóm làng tại miền
Nam
. Riêng tại Huế, nhiều ngàn người bị
giết chết bằng đủ kiểu cách, bị
giết cá nhân cũng như bị giết tập
thể. Thời điểm đó, quê hương tôi
trận chiến cũng xảy ra nhưng ở mức
độ không ác liệt như ở Huế. Năm
1968 tôi c̣n là một học sinh nên cũng chẳng
để ư nhiều về cuộc chiến. Tôi
chỉ nghe tin tức trên đài phát thanh nhiều hơn
là đọc báo. Do đó nhiều h́nh ảnh tang thương
của quê hương, cũng như cảnh chết
chóc của đồng bào tại Huế tôi khó mà mường
tượng. Khi lập gia đ́nh, vợ tôi là người
Huế và có 2 người chú ruột cũng bị
cộng quân giết chết vào Tết Mậu Thân nên
tôi mới hiểu nhiều hơn. Ra hải ngoại
đọc thêm nhiều hồi kư, nhiều sách
truyện của những tác giả là chứng nhân
đă viết như “Giải Khăn Sô cho Huế”
của Nhă Ca, tôi mới thấy được
một cuộc chiến quá dă man, nhiều kiểu
giết người không gớm tay.
Mùa
Xuân Quư Sửu - "Hiệp Định
Chấm
Dứt Chiến Tranh Lập
Lại Hoà B́nh Ở Việt Nam"
tại Paris năm 1973:

Rồi một mùa Xuân nữa lại trở
về trong niềm hân hoan chờ đón của toàn dân
miền Nam Việt Nam, mặc dù h́nh ảnh Tết
Mậu Thân 5 năm về trước vẫn c̣n
ấn tượng cho người dân Huế. Nhưng
đối với các thành phố khác, không khí
tiết Xuân đă làm cho ḷng người hân hoan đón
chào sau một năm dài vất vả với công
ăn việc làm. Đặc biệt vào mùa Xuân năm
ấy, dân tộc ḿnh c̣n ǵ vui hơn khi được
tin "Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại
Hoà B́nh Ở Việt Nam" vừa
được kư kết vào ngày 27.1.1973 tức là ngày
24 tháng chạp năm Nhâm Tư tại Paris. Tạm gọi ngắn gọn
là "Hiệp Định Paris 1973". Tin tức về "Hiệp
Định Paris 1973" được truyền
đi nhanh chóng trên những phương tiện
truyền thông. Chiến tranh tại Việt
Nam
được chấm dứt. Lúc đó tôi nghĩ
ngợi mông lung. Có lẽ tôi cũng cùng tâm trạng
như mỗi chiến sĩ quân lực VNCH trên
khắp mọi nẻo đường đất nước,
như mỗi tân binh, như mỗi sinh viên sĩ quan,
ai ai cũng vui mừng khôn tả rằng hoà b́nh đến
với quê hương Việt Nam. Mỗi người
có thể dệt ước mơ cho ḿnh một
cuộc sống thanh b́nh thời hậu chiến.
Riêng tôi th́ mong ước tiếp tục
cuộc đời sinh viên thuần tuư mà ḿnh đă
đến và đă xếp bút nghiên ra đi ṭng quân
cứu nước:
“Trả lại em yêu khung trời Đại học.
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát…”
Bây giờ tôi sẽ trở lại con đường
xưa yêu dấu, cố gắng học thành tài và
mong rằng góp phần xây dựng quê hương
thời hậu chiến. Một trời ước mơ
đến với tôi ! Bạn bè tôi cũng vậy.
Đứa nào cũng có văn bằng tối
thiểu là tú tài 2 để được tuyển
chọn vào quân chủng Hải quân Quân lực VNCH. Có
bạn đă vào đại học được
một, vài, ba năm trước khi bị động
viên vào lính. Giờ đây, đất nước thái
b́nh th́ sẽ tiếp tục việc học trở
lại để trở thành những chuyên gia với
kiến năng đa hiệu, sẽ giúp ích cho xă
hội, góp phần tái thiết quê hương -
một quê hương
đă phải gánh chịu bao cảnh tang thương,
ruộng vườn nhà cửa… bị tàn phá qua
những năm dài chinh chiến. Thật là một
tầng lớp nhân tài, những chuyên viên ưu tú
của đất nước thời hậu chiến.

[*]
Tác giả cùng 14 bạn Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân được gởi đi
Thụ Huấn Căn Bản Quân Sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung từ 11.1970 - 01.1971.
Lúc bấy giờ,
vào đầu tháng 02 năm 1973, tôi đang thụ huấn giai
đoạn 2 tại trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang. Trước khi tôi được thuyên
chuyển từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội
Hải Quân Sài G̣n ra Trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang thụ huấn, [*]
chúng tôi đă được
huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung kéo dài 3 tháng. Tiếp theo là
đi thực tập trên các chiến hạm của
Hải Quân VNCH. Riêng tôi cũng đă được
phân phối đi thực tập trên Hoả Vận
Hạm HQ471 (2 tháng) và Hộ Tống Hạm Nhật
Tảo HQ10 (7 tháng) để làm quen với biển
cả cũng như học hỏi về hải
nghiệp.
Đi
tàu biển tôi mới hiểu được từ
ngữ “cho cá ăn chè” hoặc “ôm sô”. Trên
chiến hạm Nhật Tảo HQ10, nhóm SVSQ chúng tôi
gồm có 10 bạn và được chia làm 3 ca (quart),
c̣n gọi là phiên. Tôi trực thuộc một ca. Trưởng
ca là HQ Thiếu Uư Lê văn Từ, thủ khoa Khoá 19
SQHQNT ngành Chỉ huy. Trong thời gian đi thực
tập trên chiến hạm, tôi đă học
được rất nhiều điều hữu ích
về hải nghiệp với sự chỉ dẫn
tận t́nh của sĩ quan trưởng ca.
Tôi
c̣n nhớ vào một hôm biển động mạnh,
trời mưa, tôi hết ca từ đài chỉ huy
HQ10 đi xuống pḥng ngủ, mặt mày hơi tái
xanh v́ khá mệt. Bạn bè hỏi thăm tôi rằng
có “cho cá ăn chè” không?. Tôi không hiểu và
hỏi: Hôm nay nhà bếp có nấu chè sao? Các bạn
cười rộ. Một bạn thốt lên: Tụi nó
hỏi mầy rằng biển động như
vậy mầy có bị “mửa” không đó. Từ
đó tôi mới hiểu cụm từ “cho cá ăn
chè”.
Trước
khi gia nhập vào Hải quân tôi cũng thường
nghe nhạc phẩm Hoa Biển của nhạc sĩ
Hải quân Anh Thy. Khi đi thực tập trên
chiến hạm ngoài biển khơi hàng tuần, tôi
mới hiểu được hoa biển trong văn chương.
Khi sóng nhẹ, hoa biển xuất hiện trên mặt
biển dưới bóng trăng đêm với vẻ
đẹp nên thơ, nhưng khi trùng dương
dậy sóng, hoa biển được bắn tung toé lên
đài chỉ huy của chiến hạm, nơi đâu
cũng thấy toàn là hoa biển th́ mới thấm thía
về cuộc đời “thuỷ thủ và biển
cả”. Nhưng đổi lại, đó là lúc
tập luyện “sự nhẫn nại của con người
và chắc chắn sẽ hữu ích cho cuộc đời”
và cuộc đời tôi đă chứng minh và đă
trải qua.
Là
sinh viên sĩ quan (SVSQ), vào mùa Xuân Quư Sửu chúng tôi
đang mang cấp bậc tương đương
Chuẩn Uư (dấu hiệu Alpha Omega). Khoá đào tạo Sĩ
Quan Hải Quân của chúng tôi kéo dài 2 năm. Chúng
tôi được tiếp tục đào tạo chuyên
môn gần 9 tháng nữa mới tốt nghiệp.
Việc học hành nơi quân trường cũng khá
gian nan. Những môn học như toán bậc đại
học để ứng dụng vào lănh vực điện
tử, môn điện kỹ nghệ, môn điện
tử, môn thiên văn học, quản trị học,
lănh đạo chỉ huy, nhiên liệu, cơ khí, hàng
hải, Anh văn v.v. đủ làm cho mỗi sinh viên
chúng tôi đừ người. Mỗi ngày có từ 6
đến 8 giờ học ở giảng đường.
Ngoài ra c̣n có thêm thời gian luân phiên đi thăm viếng
và thực tập trên các chiến hạm. Ngoài
giờ ở pḥng học, chiều về chúng tôi c̣n
phải tập diễn hành nơi sân vận động
của quân trường để chuẩn bị cho
cuộc diễn hành mừng ngày Quân Lực 19.6.1973
tại Sài G̣n.
Vào ban đêm, SVSQ chúng tôi lại phải vào
giảng đường để ôn bài cho tới
khuya, chuẩn bị cho những kỳ thi sau mỗi
thời gian học. Tinh thần học tập của
SVSQ cũng khá căng thẳng v́ SVSQ nào cũng sợ
thi bị rớt, nhất là vào kỳ thi tốt
nghiệp. Đối với những SVSQ thi rớt
ở giai đoạn 1 (sau 1 năm thụ huấn đầu
tiên) th́ cũng phải bị đưa ra đơn
vị và mang cấp bậc Trung sĩ. SVSQ đó cũng
phải chờ 2 năm, cách 1 khoá kế tiếp
mới được về học lại từ
đầu. C̣n đối với SVSQ thi rớt ở
kỳ thi tốt nghiệp thuộc giai đoạn 2
th́ cũng phải bị đưa ra đơn vị
với cấp bậc Chuẩn Uư. Lẽ tất nhiên
Chuẩn Uư sẽ không được thăng cấp
tự động mà phải chờ đợi khoá
thứ 2 kế tiếp mới được trở
về học lại 1 năm, rồi thi tốt
nghiệp trở lại.
Biệt
Điện Bảo Đại,
Hải
Học Viện và
Quân Cảng
Nha Trang
Vào một buổi chiều tối Xuân, tôi
thuộc toán SVSQ đi ứng chiến tại Biệt
Điện Bảo Đại nằm ở phía Nam thành
phố Nha Trang gần trường Sĩ Quan Hải Quân,
cách khoảng vài ba cây số. Biệt Điện
được xây dựng trên ngọn đồi không
cao lắm, đủ tầm nh́n ra khơi và hướng
về phố thị. Nh́n ra biển, mặt nước
xanh biếc. Cận bến bờ Cầu Đá là thương
cảng Nha Trang, nơi đó chúng tôi có thể
tập lái những chiếc ca-nô (yuyu), dùng để
chở quân đổ bộ khi học về môn
vận chuyển. Thấp thoáng những đợt sóng
êm đềm lướt theo làn gió Xuân nhè nhẹ
tạo thành những âm điệu ŕ rào rung cảm ḷng
người lữ thứ. Hướng về thương
cảng, cách Biệt Điện khoảng 400 mét
đường chim bay là Hải Học Viện Nha
Trang được thành lập vào năm 1922. Từ năm
1969 Hải Học Viện trực thuộc Viện
Đại Học Sài G̣n, là nơi lưu trữ các
dữ kiện về địa chấn học, chu
kỳ thuỷ triều và hải lưu vùng biển
Đông.
Chung
quanh Biệt Điện có nhiều loại bông hoa
đua nhau nở rộ, màu sắc rực rở như
chào đón chúa Xuân. Thêm vào đó, có nhiều cây
cảnh, cành lá xum xuê, rất đẹp. Đặc
biệt là loại cây hoa sứ, mùi thơm ngây
ngất. Nhiều đàn chim se sẻ chiều tối
tụ về tổ ấm trên những cành cây ca hót líu
lo, đón chào mùa Xuân mới.
Hướng
về thành phố Nha Trang, bên cạnh là phi trường,
ánh điện muôn màu như ngàn sao lấp lánh vào
những đêm trăng mùa hè, toả sáng cả
một phương trời phố thị thân yêu
đang bừng lên sức sống. Con đường
Duy Tân với những cột điện bên đường
ẩn hiện trong những hàng cây dương
liễu cao vút, vươn ḿnh theo gió, chạy dọc
theo bờ biển h́nh bán nguyệt với bải cát
trắng xoá, lung linh như những ánh sao rơi. Xa xa
nh́n về phía Bắc hướng cầu Hà Ra và
cầu Bóng của thành phố Nha Trang, nhiều
chiếc thuyền nan ẩn hiện với những ánh
đèn trên mui ghe chiếu sáng như báo hiệu
một cuộc sống thái hoà.
Sau một đêm ứng chiến b́nh an, sáng
thức dậy tâm hồn thật phơi phới. Tôi
hít hơi thở thật sâu. Lồng ngực căng
phồng, phổi tràn đầy không khí trong lành
của gió biển vào Xuân trước vườn cây
xanh tươi đâm chồi nở nhuỵ. Ḷng ḿnh
khoan khoái biết bao hoà cùng với bướm lượn,
hoa cười đón mừng chúa Xuân. Nàng Xuân đẹp
quá, dễ thương quá, tôi thầm hát:
Nàng
Xuân đến giáng Xuân diễm kiều thầm yêu ai
đó
Nàng Xuân hởi với tôi hảy cùng cùng hoà
tiếng tơ
Tôi
đón Xuân với ḷng thấm thiết
Tôi đón Xuân với niềm hân hoan
Tôi đón Xuân với t́nh bát ngát
Tôi với Xuân vô vàng niềm yêu
(Nhạc phẩm Nàng Xuân của Tôi của Nguyễn
Hữu Thiết)
Vào buổi sáng tinh sương, sau khi hoàn thành
nhiệm vụ ứng chiến, toán SVSQ chúng tôi trên
đường từ Biệt Điện trở
về quân trường gặp nhiều xe cộ
chạy ngược chạy xuôi. Những khuôn mặt
trai trẻ tràn đầy vui tươi, yêu đời
trong những ngày đầu Xuân hiền hoà của
miền
Nam
tự do.
Trước những cảnh tượng đó,
trong tôi hiện lên niềm vui khôn tả và thoáng
chốc những vần thơ xuất hiện. Tôi
đă chọn 3 chữ đầu làm tựa đề
cho bài thơ:
Xuân
Thanh B́nh
nay về trên đất Mẹ
Ngàn đoá hoa đua nở đón Xuân sang
Màu Xuân tươi nhuỵ thắm cánh mai vàng
Cây cỏ ướm mầm non Xuân Dân Tộc
Xuân nay về không c̣n nghe tiếng khóc
Bom đạn thù gây chết chóc thê lương
Mẹ Việt
Nam
gịng lệ hết trào tuôn
Màu chinh chiến phai nhoà trong dĩ văng
Gió Xuân về bầu trời xanh quang đăng
Dân tộc ḿnh hạnh phúc đón Xuân sang
Xuân vui tươi rộn ră khắp thôn làng,
Nơi phố thị hồi sinh bừng sức
sống !
(Nguyễn Văn Phảy
Xuân Quư Sửu
1973
tại Nha Trang)
Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ tràn
đầy niềm vui với mùa
Xuân Thanh B́nh hy vọng. Đó là mùa Xuân Quư
Sửu 1973. Tôi luôn ước mong, tiếp nối
sẽ là những mùa Xuân hiền hoà, Xuân an vui đến
với quê hương và dân tộc Việt
Nam
. Đó là những mùa Xuân không chiến tranh, không bom
đạn, không thù hằn, không tiếng khóc.
Nhưng
rồi, những tháng ngày kế tiếp trôi qua. Tôi và
bạn bè đă thất vọng về "Hiệp định
Paris
1973". Chiến sự vẫn tiếp tục. Tin tức
cho biết, những đoàn xe tăng T54, súng đạn
của Liên Xô, Tàu cộng và của khối cộng
sản đông Âu, được tiếp tục chuyên
chở vào miền Nam cùng những đoàn quân trai
trẻ, gồm nhiều bộ đội cộng
sản Bắc Việt chưa tṛn 18 tuổi. Tất
cả phục vụ chiến trường nhằm
thực hiện âm mưu thôn tính miền
Nam
của quốc tế cộng sản.
Thế là theo thời gian, ước mơ hoà b́nh
đều tan biến trong tôi và bạn bè. Khoá đào
tạo Sĩ quan Hải quân Đệ Nhị Song Ngư
của chúng tôi, ngày qua ngày vẫn được
diễn ra như thường lệ.
Ngày 19.6.1973, để biểu diễn sức
mạnh của Toàn Quân Dân VNCH, khoá SVSQ Hải Quân chúng tôi lên
đường về Sài G̣n để diễn hành
mừng Ngày Quân Lực. Đó cũng là niềm
tự hào của quân chủng Hải Quân chúng tôi.
Mời xem Video Khoá 24 Đệ Nhị Song Ngư tham dự Diễn Hành Ngày
Quân Lực VNCH 19.6.1973
Và rồi, sau 2 năm dài học tập, tôi cùng
với 279 bạn bè cùng trang lứa, là những SVSQ
với những năm dài thụ huấn hải
nghiệp, đă chính thức tốt nghiệp với
kỳ thi khá khó khăn. Có một số SVSQ bị
hỏng trong kỳ thi măn khoá. Một buổi Lễ
Tốt Nghiệp được tổ chức rất
trọng thể vào ngày 01.09.1973 tại Trung Tâm
Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang với sự tham
dự và chủ toạ của đại diện chính
phủ VNCH cũng như Đô Đốc Tư
Lệnh Hải Quân và thân nhân của chúng tôi.
Rồi từ đó chúng tôi chính thức mang lon
Hải Quân Thiếu uư (dấu
hiệu Omega) trên vai. Sau 1 tuần lễ nghỉ phép,
với trọng trách của một tân Sĩ Quan
Hải Quân, khoá chúng tôi được tung đi tân
đáo trên các chiến hạm, ở các đơn
vị duyên hải và giang đoàn khắp mọi
nẻo đường đất nước.
Tôi nằm trong danh sách 30 tân sĩ quan có số
điểm thi tốt nghiệp cao nhất khoá,
được đi thực tập tại Đệ
Thất Hạm Đội Mỹ nên phải về
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Sài G̣n để
chuẩn bị Anh ngữ nên không được đi
phép 1 tuần.
Mời
xem Những Mùa Xuân Ghi Dấu (Phần 2):
Mùa
Xuân Giáp Dần - Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974
Nguyễn
văn Phảy
Xuân
Quư Tỵ 2013 in
Germany
|